1. CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA LÝ BÍ (NHÀ TIỀN LÝ),
CUỘC TRƯỜNG KÌ KHÁNG CHIẾN CỦA TRIỆU QUANG PHỤC 
(NHÀ TRIỆU – VIỆT),
VÀ VÀI NÉT VỀ LÝ PHẬT TỬ (NHÀ HẬU TIỀN LÝ) (*)

1
Bối cảnh lịch sử

Sau cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh vào năm Mậu thìn (248), lịch sử nước ta về phương diện chống xâm lược, chống sự thống trị của các thế lực phong kiến Trung Hoa lại rơi vào khoảng trống trong sử sách. Giao Châu rơi vào giữa hai gọng kìm: phía bắc vẫn là các thế lựïc Trung Hoa; phía nam lại là Lâm Ấp (Chiêm Thành).

a. Ách đô hộ và gọng kìm Trung Hoa:

Ở Trung Hoa, thế tam phân của thời Tam quốc (**) đã thay đổi. Trước đó, Tư Mã Ý đã khuynh loát nhà Ngụy; tiếp đến, Tư Mã Chiêu tiêu diệt được nước Thục (263); đến đời Tư Mã Viêm, Viêm đã ép vua Ngụy nhường ngôi, để lập nên nhà Tấn (264). Nhà Thục và nhà Ngụy tiêu vong, chỉ còn nhà Ngô và nhà Tấn chia nhau thống trị nước Trung Hoa. Tôn Hạo là con cháu của Tôn Quyền, vẫn kế tục ngai vàng nhà Ngô ở vùng đất phía đông nam Trung Quốc. Giao Châu ta vẫn là xứ thuộc địa của Ngô triều này.

Từ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu, mãi đến 15 năm sau (263), ở Giao Châu ta mới bắt đầu có một biến động thể hiện rõ sự phản kháng của nhân dân. Đó là sự kiện Lữ Hưng, vốn là một quan lại cấp thấp của quận Giao Chỉ, nhân tình thế đó, đã triệt hạ tên thái thú gian ác Tôn Tư và cả tên Đặng Tuân (1). Cả hai quận Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng. Tuy nhiên, đây chỉ là sự hưởng ứng của nhân dân đối với một viên quan lại không gian ác để tiêu diệt những tên quan lại gian ác kia mà thôi. Nhà Ngụy (264 (2)) ở Trung Hoa vẫn phong Lữ Hưng làm An Nam tướng quân, đô đốc việc quân ở Giao Châu!

Tiếp theo đó là những năm Giao Châu thành vùng đất tranh giành lẫn nhau giữa nước Ngô và nước Tấn (cả hai đều là Trung Hoa)! Cho đến năm Canh tí (280), Trung Hoa mới nhất thống dưới ngai vàng duy nhất của nhà Tấn (265 – 317)!

Sau đó, nhà Tấn bị Ngũ Hồ (năm nước Hồ [sử cũ thường gọi là rợ Hồ] ở tây bắc Trung Hoa) xâm lấn. Hậu duệ nhà Tấn lại trung hưng, lập kinh đô ở Kiến Khương (Nam Kinh ngày nay). Do đó, nhà Tấn sơ (265 – 317) được gọi là nhà Tây Tấn; nhà Tấn trung hưng (317 – 420) được gọi là nhà Đông Tấn. Nhưng nhà Đông Tấn không còn nhất thống toàn cõi Trung Hoa nữa, mà chỉ còn giữ được vùng đất đông nam.

Giao Châu ta lại chịu ách đô hộ của Đông Tấn (317 – 420)!

Năm 420, ở Trung Hoa, cục diện lịch sử cũng đã đổi khác: thời kì Nam (420 – 589) – Bắc triều (386 – 531)!

Phía bắc Trung Hoa, các triều vua tranh đoạt, nối tiếp nhau là: Hậu Nguỵ (người Mãn Châu; về sau, chia ra Đông Ngụy, Tây Nguỵ), kế theo Đông Nguỵ là Bắc Tề, kế theo Tây Ngụy là Bắc Chu, cuối cùng Bắc Chu diệt cả Bắc Tề (577). Bắc Chu tồn tại đến năm 581.

Phía nam Trung Hoa, các triều Tống (420 – 479), kế đến là Tề (479 – 502), rồi tiếp đến là Lương (502 – 556), Trần (557 – 589) thay nhau cầm nắm vương quyền (3)!

Giao Châu ta phải chịu lệ thuộc vào các vương quyền Nam triều Trung Hoa đó!

Mãi đến năm Mậu thân (468) [Tống, Minh đế, năm Thái Thuỷ thứ 4], ở Giao Châu mới khởi dậy một sự kiện có thể nói là gây phấn chấn cho nhân dân dưới ách đô hộ của các vương triều Hán tộc. Cương mục chép: “Người trong châu là Lý Trường Nhân giết những bộ thuộc của Lưu Mục đem từ Trung Quốc sang, rồi chiếm giữ đất Giao Châu…” (4). Lý Trường Nhân tự xưng là thứ sử; chống cự cả thứ sử người Tàu, tên Lưu Bột, do nhà Tống bổ nhiệm. Sau đó, tự biết thế lực, Lý Trường Nhân nhún nhường xin hàng, “tự giáng chức mình xuống làm người chấp hành công việc Giao Châu. Vua Tống y cho” (4). Nhưng trong thực tế, Nhân vẫn giữ cương vị thứ sử. Sau Nhân, nhà Tề thuận cho người họ hàng là Lý Thúc Hiến thay chân thứ sử (479). Nhưng 6 năm sau (485), Lý Thúc Hiến không chịu cống nạp, nhà Tề sai Lưu Khải dẫn quân binh sang đánh. Hiến phải xin bãi binh; Lưu Khải làm thứ sử.

Sau đó, năm Ất dậu (505), lại diễn ra cuộc tranh chống giữa quan lại nhà Tề với quan lại nhà Lương, khi nhà Tề đã bị tiêu vong ở Trung Hoa (5)! (6).

b. Gọng kìm Lâm Ấp (Chiêm Thành)

Thêm một nỗi khổ hoạ nữa cho xứ Giao Châu, đó là xâm lấn của nước Lâm Ấp ở phía nam. Sau cuộc khởi nghĩa của Khu Liên (năm Đinh sửu, 137) ở huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam, nước Lâm Ấp bắt đầu lập quốc. Đến nay, Lâm Ấp muốn bành trướng lãnh thổ của mình, bằng cách đánh vào nước Phù Nam phía Nam (vùng Nam bộ Việt Nam ngày nay) và liên tục đánh ra phía bắc (Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ [Thừa Thiên – Lạng Sơn ngày nay])! Các cuộc xâm chiếm khốc liệt nhất của Lâm Ấp vào Cửu Chân, Giao Chỉ là vào các năm: Kỉ hợi (399), Quý sửu (413), Ất mão (415); cho đến năm Canh thân (420), thứ sử Giao Châu (Đỗ Tuệ Độ, người Tàu (***), nhà Tấn) đánh Lâm Ấp, giết chóc nhân dân Lâm Ấp đến quá nửa dân số (7). Tuy vậy, tham vọng bành trướng lãnh thổ của Lâm Ấp vẫn chưa thôi. Đây là bi kịch chua xót nhất trong quy luật về sự tồn sinh của mọi sinh vật, nhất là sinh vật cấp cao là động-vật-người (****)!

Trận Lâm Ấp đánh phá Cửu Chân lại diễn ra tiếp theo vào năm Tân mùi (431). Trận này thứ sử Giao Châu Nguyễn Di Chi (người Tàu) phản công và tiến công, nhưng không thể thắng Lâm Ấp, đành rút quân về. Sau đó, vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương Mại lại sai sứ sang Trung Hoa, xin nhà Tống cho Lâm Ấp cai quản cả Giao Châu ta. Đó là sự kiện diễn ra vào năm Quý dậu (433) (*****). Tất nhiên vua Tống không chịu! Năm Bính tuất (446), Lâm Ấp lại bị Đàn Hoà Chi, thứ sử Tàu cai quản Giao Châu, đánh bại. Họ Đàn kéo quân vào đến tận kinh đô Lâm Ấp, vơ vét, giết chóc.

Nước ta bị siết chặt giữa hai gọng kìm lịch sử. Một khổng lồ, một sắc nhọn! Dẫu sắc nhọn, gọng kìm Lâm Ấp (về sau là Hoàn Vương, Chiêm Thành) khởi đầu và chung quy vẫn là vấn đề nội bộ của lịch sử Việt Nam. Trung Hoa, bấy giờ và mãi đến mấy trăm năm sau, còn là một cái ách đô hộ nặng nề, đầy đau đớn, tủi nhục.

2
Cuộc khởi nghĩa Lý Bí (Lý Bôn) và việc thành lập triều đại Tiền Lý (544 – 548)

 

Theo Toàn thư và Cương mục, Lý Bí còn có tên gọi là Lý Bôn, vốn có gốc gác là người Trung Hoa. Từ 6 đời trước, thời Tây Hán ([-206] – [+ 8]), tổ tiên Lý Bí đã tránh loạn trên đất Hán, sang cư trú tại nước ta, dòng dõi là hào trưởng. “Đến Lý Bôn là đời thứ bảy, đã trở thành người Phương Nam (8). Lý Bôn tài kiêm văn võ, làm quan triều Lương, coi đạo quân Cửu Đức. Vì bất đắc chí, nên về Thái Bình khởi binh. Tù trưởng huyện Chu Diên (9) là Triệu Túc cũng đem quân theo Lý Bôn. [Thứ sử triều Lương – ct.] Tiêu Tư biết rõ việc ấy, đem tiền đút lót cho Lý Bôn rồi chạy về Quảng Châu (10). Lý Bôn liền giữ thành Long Biên” (11). Ngoài Triệu Túc, một người thuần Việt (làm tù trưởng), còn có Tinh Thiều, một người học giỏi, lại có tài văn chương, đã lặn lội sang đến kinh đô nhà Lương để ứng tuyển làm quan. Bấy giờ, ở Trung Hoa, dưới triều Lương, thể chế tuyển dụng căn cứ vào dòng dõi (sĩ tộc: quan muôn đời làm quan; hàn tộc: dân muôn đời chân lấm tay bùn!). Hơn nữa, cho dù bất kì ai có gốc gác là sĩ tộc Trung Hoa, nhưng di cư sang Giao Châu, cũng bị liệt vào loại hàn tộc. Do đó, ở trường hợp Thiều, thượng thư Bộ Lại triều Lương căn cứ vào lí lịch họ Tinh, thấy không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho Tinh Thiều làm Quảng Dương môn lang, một chức việc trông gác cổng thành có tên là cửa Dương Quang! Thiều xấu hổ, trở về, mưu việc khởi binh với Lý Bôn. “Giữa lúc đó thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư vì tàn bạo, khắc nghiệt, mất lòng dân. Hai người, Lý Bôn và Tinh Thiều, nhân đấy liên kết với mấy châu; các hào kiệt đều hưởng ứng, theo cả” (11).

Cuộc khởi nghĩa này, có một nguyên nhân, như Toàn thư và Cương mục đã ghi rõ, Đào Duy Anh đã trình bày thêm: “Người Trung Hoa đã di cư sang Giao Châu lâu đời thì dù có phải nguồn gốc sĩ tộc cũng bị xem là hàn tộc, cho nên người Giao Châu, trừ những thời Trung Quốc có loạn, từ thời Tam Quốc về sau không được bổ chức quan cao nữa – không như thời Hán, thỉnh thoảng có người sinh trưởng ở Giao Châu, như Lý Tiến, Trương Trọng, được bổ quan lại cao cấp. Đó là một nguyên nhân tăng thêm mâu thuẫn giữa tầng lớp hào trưởng bản quốc đối với quan lại Trung Quốc. Phần tử lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa quan trọng này đa số chính là thuộc thành phần ấy” (11).

Với nguyên nhân như thế, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra.

Sử cổ cũng chép, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (Bôn) giành chính quyền không gặp phải sự chống cự của thứ sử người Hán là Tiêu Tư (họ Lương, thân thuộc vua Lương) và quân binh của y.

Sau đó, nhà Lương sai quan tướng sang tái chiếm. Toàn thư chép, vào năm Nhâm tuất (542), vì khí độc, nên: “bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố, 10 phần chết đến 6, 7 phần, quân tan rã mà về. Tiêu Tư tâu với vua Lương rằng Quỳnh và Tử Hùng dùng dằng không chịu đi, đều bị buộc phải tự tử” (12).

Đơn giản là thế. Tuy vậy, Lý Bôn vẫn rèn luyện quân binh, lo việc phòng thủ. Trận chiến đấu đầu tiên xảy ra vào hai năm sau (Quý hợi, 543), lại gặp đối phương chính là quan tướng Lâm Ấp! Phạm Tu, một viên tướng của Lý Bôn, đánh tan quân Lâm Ấp ngay tại Cửu Đức (Hà Tĩnh).

Năm Giáp tí (544), “Tháng giêng, mùa xuân. Lý Bôn tự xưng là Nam Việt đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, tên nước là Vạn Xuân […]. Dựng điện Vạn Xuân để làm chỗ triều hội. […] Đặt ra trăm quan. Dùng Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ ” (13).

Cương mục chép tiếp: “Năm Ất sửu (545). ([Tiền] Lý, năm Thiên Đức thứ 2; Lương, năm Đại Đồng thứ 11). Tháng 6, mùa hạ. Triều Lương sai Dương Phiếu, Trần Bá Tiên sang đánh. Nam Việt đế Lý Bôn chạy sang Gia Ninh” (14).

“Năm Bính dần (546). […]. Tháng giêng, mùa xuân. Bọn Dương Phiếu đánh được thành Gia Ninh, Nam Việt đế Lý Bôn chạy đi Tân Xương. […] Mùa thu, tháng tám. Nam Việt đế Lý Bôn đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương đến đánh, quân Lý Bôn bị vỡ, rút vào giữ động Khuất Lạo. […] Sử cũ chép: Nam Việt đế Lý Bôn lại rút lui, giữ trong động Khuất Lạo, điều chỉnh binh lính, mưu tính chiến đấu về sau; giao cả cho tả tướng quân Triệu Quang Phục [con trai của Triệu Túc – ct.] giữ nước, cầm quân chống nhau với Bá Tiên” (15).

“Năm Mậu thìn (548). ([Tiền] Lý, năm Thiên Đức thứ 5; Lương, năm Thái Thanh thứ 2). Tháng 3, mùa xuân. Nam Việt đế Lý Bôn mất ở động Khuất Lạo. Nam Việt đế Lý Bôn ở động Khuất Lạo, bị cảm mạo khí lam chướng, đến năm này mất” (16).

Như vậy, nhà Tiền Lý chỉ tồn tại được 5 năm (544 – 548).

Có lẽ lời châu phê của Tự Đức cũng đã rộng rãi lắm về Lý Bôn: “Nam đế nhà [Tiền] Lý dẫu sức không địch nổi giặc Lương đến nỗi công cuộc không thành, nhưng đã biết nhân thời cơ vùng dậy, tự làm chủ lấy nước mình, đủ làm thanh thế mở đường cho nhà Đinh, nhà Lý sau này. Vậy việc làm của Lý Nam đế há chẳng hay lắm sao?” (17).

Phải chăng tài năng của Lý Bôn là đã phân tích nhạy bén, chính xác về thời thế, cụ thể là sự suy yếu trước mắt và suy vong tất yếu sẽ xảy ra không xa của nhà Lương, và đã biết chớp lấy thời cơ. Ngoài ra, nguồn gốc, nguyên nhân của khởi nghĩa và tài thao lược của Lý Bôn là không có gì đáng ca ngợi.

Lý Bôn (Lý Bí) chính là một nguỵ quan của bọn phong kiến nhà Lương (Trung Hoa) xâm lược, cho dù chỉ là nguỵ quan cấp thấp. Lý Bôn “bất đắc chí” trong quá trình làm nguỵ quan, hay nói như Toàn thư“làm quan không được vừa ý” (18). Tinh Thiều cũng có ý muốn và đã thực sự dấn thân vào con đường làm nguỵ quan cho giặc xâm lược, nhưng chua xót thay, lại bị vướng phải thể chế lí lịch (hàn tộc chứ không phải sĩ tộc, lại là lưu dân Trung Hoa sang đất Việt đã bị Việt hoá), không lên cao được trên con đường quan chức Trung Hoa. Cả hai đều tầm thường. Họ là điển hình của bi kịch lưu dân, vừa bị chính nước tổ (nước gốc Trung Hoa) bạc đãi vì thiếu tin tưởng, vừa bị chính nhân dân nước ngụ cư (Giao Châu [nước Việt]) nghi ngại. Cuộc nổi dậy của họ chỉ xuất phát từ bất mãn cá nhân trước bọn chóp bu xâm lược và thể chế lí lịch của chúng.

Tuy nhiên, phải thấy thêm phân số Việt hoá trong huyết thống và bản chất văn hoá cá nhân của họ. Không những một thế hệ, mà đến bảy thế hệ gắn bó với người Việt, dẫu họ thế nào chăng nữa cũng có tình cảm gắn bó máu thịt với Giao Châu của người Việt.

Toàn thư vẫn ghi nhận với ngọn bút khoan dung: “Vua có chí diệt giặc cứu dân, không may bị Trần Bá Tiên sang đánh chiếm, nuốt hận mà chết. Tiếc thay!” (19) .

Chính tù trưởng Triệu Túc và nhất là con trai của ông, Triệu Quang Phục, mới là nhân vật đáng nể trọng.

3
Cuộc trường kì kháng chiến của nhân dân ta, do Triệu Quang Phục lãnh đạo: triều đại Triệu Việt vương (549 – 570)

a. Triệu Quang Phục, nhân vật lịch sử hay huyền thoại?

Triệu Túc? và Triệu Quang Phục?

Là tù trưởng huyện Chu Diên (ở khoảng huyện lị Phả Lại, tỉnh Hải Hưng (20)), chắc chắn Triệu Túc là người thuần Việt.

Sử học không cho phép chúng ta suy diễn. Tuy nhiên, vẫn có thể chấp nhận những giả thuyết có một vài luận cứ khả dĩ (mặc dù chưa hội đủ luận cứ khoa học để kết luận khoa học). Nếu chi tiết Trần Trọng Kim đưa ra trong Việt Nam sử lược sẽ được kiểm chứng lại là đúng, chúng ta có thêm dữ liệu để làm luận cứ. Chi tiết ấy là: “Về sau, vua Nam đế nhà Tiền Lý khen [Triệu Thị Trinh] là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là: ‘Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân’ ” (20). Như vậy, Lý Bôn đã thể hiện lòng yêu nước (Giao Châu) trong việc sắc phong Triệu Thị Trinh cũng như việc dùng tù trưởng Triệu Túc làm thái phó, tướng võ của triều đình nước Vạn Xuân. Một luận cứ nữa, về nguồn gốc dân tộc Triệu Quốc Đạt (anh ruột của Triệu Thị Trinh), theo ghi nhận của Cương mục“Đến khi giặc Man Di quận Cửu Chân đánh và hạ được các thành ấp, Giao Châu náo động” (21). Rõ ràng bọn Tàu thực dân ghi nhận anh em Triệu Quốc Đạt – Triệu Thị Trinh là Man Di (cách gọi ngạo mạn của chúng).

Khẳng định như vậy, để đi đến ý tưởng sau đây: Tôi không có ý suy diễn điên rồ rằng, Triệu Quang Phục chính là hậu duệ của tên giặc Triệu Đà (kẻ giương cờ Tần Thuỷ hoàng xâm lược nước ta), nay muốn quang phục (khôi phục sự vẻ vang) cơ nghiệp cũ của tổ tiên. Tôi bình tâm tin tưởng, chính tù trưởng Triệu Túc muốn khôi phục lại sự vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Triệu Thị Trinh, một nữ anh hùng (người Mường?) đã vì nước, vì dân tộc mà tổ chức, lãnh đạo, chiến đấu chống bọn phong kiến Trung Hoa xâm lược, chiếm đóng.

Vả lại, thật sự trong tâm thức dân gian, ở di tích tín ngưỡng, quần chúng nhân dân lại đồng nhất Triệu Quang Phục với truyền thuyết lịch sử An Dương vương: không phải đồng nhất hoá Triệu Đà với Triệu Quang Phục, mà lạ thay, ngược lại, nhân dân đã đồng nhất An Dương vương với Triệu Quang Phục! Không những thế, truyền thuyết từ thời vua Hùng (trước công nguyên Tây lịch) là truyện Tiên Dung (công chúa) – Chử Đồng Tử (ngư dân nghèo khổ) lại được phục hiện ở nhân vật lịch sử Triệu Quang Phục (ở ngôi: 548 – 570), thế kỉ thứ VI, với sự phù hộ của Chử Đồng Tử đối với Triệu Quang Phục.

Có điều gì lạ lùng ở lớp sương mù huyền thoại bao phủ lên nhân vật lịch sử này? Cũng chính vì sự oái oăm, trái ngược nào đó trong lớp sương mù huyền thoại ấy, nên một số nghi ngại về tính xác thực nẩy sinh:

◘ Toàn thư ghi chú ngay dưới đầu đề kỉ Triệu Việt vương: “(Xét Sử cũ không chép Triệu Việt vương và Đào Lang vương, nay nhặt trong dã sử [sử do dân dã lưu giữ trong kí ức, ở thần tích – ct.] và các sách khác, bắt đầu chép vị hiệu của vương và phụ chép Đào Lang vương để bổ sung)”  (22).

◘ Cương mục lại ghi lời chua dẫn “theo sách Thanh nhất thống chí, Dạ Trạch thuộc huyện Đông Kết, phủ Kiến Xương. Thời Lương Vũ đế, Trần Bá Tiên đánh Lý Bôn, Lý Bôn trốn vào trong chằm [trằm – ct.] này, đêm đến đem quân ra đánh; nhân thế gọi là Dạ Trạch. Huyện Đông An trước gọi là Đông Kết” (23). Chẳng lẽ Lý Bôn chính là Triệu Quang Phục? Hay Lý Bôn còn có một cái tên khác, đó là Triệu Quang Phục?

◘ Cương mục lại ghi lời cẩn án: “Sử cũ chép việc Triệu Việt vương được cái móng rồng của Chử Đồng Tử cho; việc Nhã Lang sang gửi rể rồi lấy trộm móng rồng; việc Triệu Việt vương vì mất cái móng rồng mà bị thua. Đem những chuyện ấy mà kháp với truyện Thục An Dương vương và Triệu Trọng Thuỷ trước kia, giống nhau như hệt, kì quái tưởng không cần biện bạch cho lắm. Nhưng Sử cũ chép phần nhiều trùng điệp nhau, sai hẳn sự thực, đại loại như thế đấy. Nay muốn tìm ở Sử cũ lấy chuyện có thể tin ở đời này và truyền lại đời sau, thật cũng khó lắm” (24).

◘ Theo Đào Duy Anh, nhà nghiên cứu sử học người Pháp H. Maspéro cũng đã từng nêu vấn đề nghi hoặc về Triệu Quang Phục: Triệu Quang Phục là nhân vật lịch sử có thật hay chỉ đơn thuần là huyền thoại, là sản phẩm của tưởng tượng, của tín ngưỡng. Nhưng Đào Duy Anh phản bác lại: “Maspéro lại nói rằng sử sách Trung Quốc không hề biết đến tên Triệu Quang Phục. Đó cũng không phải là lí do xác tạc, vì thời gian hoạt động của Triệu Quang Phục chính là thời mà nội tình Trung Quốc rất rối loạn, rất có khả năng rằng sử sách Trung Quốc bấy giờ không biết hết những sự việc xảy ra ở Giao Châu […]. Vậy thì, trong khi vấn đề chưa giải quyết dứt khoát được, chúng ta hãy tạm thời cứ bằng vào sử cũ mà chép chuyện Triệu Quang Phục ở giữa chuyện Lý Bôn và chuyện Lý Phật Tử” (25). Đào Duy Anh còn xác định trước: chuyện Lý Bôn và Lý Phật Tử sử ta và sử Trung Quốc đều có chép cả, duy trừ chuyện Triệu Quang Phục là sử Trung Quốc không chép mà thôi (25).

Rốt lại, có ba khía cạnh quan trọng của vấn đề đặt ra:

▪ Nguồn gốc dân tộc của Triệu Quang Phục?

▪ Tại sao nhân gian lại đồng nhất Triệu Quang Phục với An Dương vương?

▪ Triệu Quang Phục là nhân vật lịch sử hay sản phẩm của tưởng tượng?

Thử trả lời:

▪ Triệu Quang Phục là người bản xứ, cha ruột là tù trưởng bộ lạc (trưởng tộc của một họ tộc trong làng thôn Việt Nam cổ [Giao Châu]); không thể là người Hán – Hoa được. Toàn thư và Cương mục đã xác quyết điều đó bằng hai chữ “tù trưởng”. Triệu Quang Phục cùng cha ruột muốn khôi phục sự vẻ vang của nữ tướng Man Di Triệu Thị Trinh (người Mường?).

▪ Triệu Quang Phục chính là hình ảnh An Dương vương bị mất vương triều vào tay Lý Phật Tử (họ hàng của Lý Bôn). Nhân dân xác quyết như thế để đánh tan sự nghi ngờ do cái tên gợi ra. Người ta rất dễ suy diễn Triệu Quang Phục là hậu duệ Triệu Đà và mưu toan quang phục cơ nghiệp của Triệu Đà. Vì vậy, nhân dân phải xác quyết ngay rằng Triệu Quang Phục chính là An Dương vương, chứ không phải Triệu Đà, mặc dù ông có trùng họ với Triệu Đà. Lý Phật Tử (gốc Hán tộc) mới chính là Triệu Đà (người Hán chính cống).

▪ Như chúng ta đã trích dẫn và đã biết, “theo sách Thanh nhất thống chí, […]  Trần Bá Tiên đánh Lý Bôn, Lý Bôn trốn vào trong chằm [trằm – ct.] này, đêm đến đem quân ra đánh; nhân thế gọi là Dạ Trạch” (23). Như vậy, sử Trung Hoa cũng có ghi nhận về hành trạng kháng chiến của Dạ Trạch vương, nhưng ngỡ rằng Lý Bôn chưa bị cảm mạo mà chết. Chính nhân vật Lý Bôn trong Thanh nhất thống chí là Triệu Quang Phục, còn Lý Bôn thật đã chết vì bệnh trước đó, và trước khi chết, Lý Bôn đã trao binh quyền cho Triệu Quang Phục.

Kết luận: Triệu Quang Phục là nhân vật lịch sử có thật. Lớp sương mù truyền thuyết thời vua Hùng – An Dương vương (trước c. ng.) đã được nhân dân phục hiện quanh Triệu Quang Phục (thế kỉ thứ VI) với ý nghĩa và mục đích như đã trình bày. Hãy cởi bỏ lớp áo khoác (truyền thuyết phục hiện) bên ngoài ấy, sẽ thấy hiện ra con người lịch sử Triệu Quang Phục thuần Việt, có thật.

Phải nói thêm rằng: Thế kỉ thứ VI không còn là thời đại huyền sử nữa. Thời kì huyền sử đã chấm dứt từ sau bi kịch An Dương vương (năm Giáp ngọ, 207 tr. c. ng.). Tuy nhiên yếu tố thần thoại, truyền thuyết bao giờ cũng còn, ngay giữa thời vi tính điện tử (thế kỉ XXI này), như một chất thơ với những ẩn dụ, hoặc như một thủ pháp nghệ thuật (chủ nghĩa hiện thực huyền ảo lành mạnh). Do đó, Triệu Quang Phục không phải là hình tượng huyền thoại, truyền thuyết lịch sử mà chính là nhân vật lịch sử được điểm tô thêm bằng ẩn dụ lấy từ truyền thuyết lịch sử xa xưa.

b. Tư liệu gốc của ta về Triệu Quang Phục:

Toàn thư viết: Lý Bôn “uỷ cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên. Đinh mão [Thiên Đức] năm thứ 4 [547], (Lương, Thái Thanh  năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 1, nhật thực. Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được. Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc, không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết. Quang Phục thuộc đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày tuyệt không để lộ khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh, nhưng không đánh được. Người trong nước gọi là Dạ Trạch vương” (29).

Toàn thư ghi chú: đó là nơi Tiên Dung và Chử Đồng Tử sống bên nhau: đầm Nhất Dạ (29).

Toàn thư viết tiếp: “… Kỉ tị, năm thứ 2 [549] […]. Từ đó quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai địch nổi (tục truyền rằng thần nhân trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ trên trời xuống, rút móng rồng trao cho vua, bảo cài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc)” (30).

“Canh ngọ, năm thứ 3 [550]. Mùa xuân, tháng giêng, nhà Lương cho Trần Bá Tiên làm Uy minh tướng quân Giao Châu thứ sử. Bá Tiên lại mưu tính cầm cự lâu ngày khiến cho ta lương hết quân mỏi thì có thể phá được. Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi [Bá Tiên] về, uỷ cho tì tướng là Dương Sàn đánh nhau với vua. Vua tung quân ra đánh. Sàn chống cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Nước ta được yên. Vua vào thành Long Biên ở” (31).

Trong khi đó, Lý Thiên Bảo (anh của Lý Bôn) đã lập ra nước Dã Năng ở vùng đất của người Di Lạo. Một thời gian, ông qua đời, không có con nối ngôi, nên trao quyền chức lại cho người bà con cùng họ là Lý Phật Tử.

Lý Phật Tử kéo quân về đánh Triệu Quang Phục (Triệu Việt vương). Nội chiến nổ ra qua 5 trận đánh! Lý Phật Tử xin hoà. “Vua nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Lý Nam đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở bãi Quân Thần (nay là hai xã Thượng Cát, Hạ Cát ở huyện Từ Liêm) cho ở phía tây của nước, [Phật Tử] dời đến thành Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm, xã ấy có đền thờ thần Bát Lang, tức là đền thờ Nhã Lang vậy)” (32).

Chuyện lại diễn ra y hệt như bi kịch An Dương vương. Trọng Thuỷ chính là Nhã Lang! Tuy nhiên, dẫu sao Trọng Thuỷ còn biết hối hận đến mức tự sát; còn Nhã Lang, sử sách không ghi một dòng nào như thế. Rõ ràng, Trọng Thuỷ còn được thờ để còn nhớ chút lòng hối hận của một tên giặc nội gián. Nhưng Nhã Lang? Nếu y không biết hối hận như Trọng Thuỷ, sao lại còn được thờ phụng? Chỉ có thể trả lời: Dân gian đâu phải việc gì cũng đúng! Vả lại, trong dân gian còn có sự phân hoá chính kiến! Phe nhân dân ủng hộ Lý Phật Tử thờ Nhã Lang chăng? Trong lời bình, Ngô Sĩ Liên cung cấp một chi tiết: “Nhã Lang thì chết trước, bản thân [Lý Phật Tử – ct.] cũng không khỏi làm tù” (33). Như vậy, phải chăng chính Lý Phật Tử ra lệnh lập đền thờ Nhã Lang, chứ không phải nhân dân? Dẫu sao, cũng lưu ý, không phải mọi thần tích (di tích tín ngưỡng), ca dao lịch sử đều chính xác tất thảy. Nhân dân cũng có phân số mù quáng.

Khía cạnh khác, Toàn thư và Cương mục đều ghi nhận một chi tiết rất thật: hai địa danh Thượng Cát, Hạ Cát nguyên tên cổ là Thượng Cát Giới, Hạ Cát Giới với chữ “cát” có nghĩa là “cắt” (ranh giới) (34).

Và như Triệu Đà thuở xa xưa, Lý Phật Tử lên ngôi, tự xưng là Hậu Nam đế, triều đại kéo dài đến ba mươi hai năm (571 – 602). Cuối cùng, “Năm Nhâm tuất (602), […], nhà Tuỳ sai Lưu Phương sang xâm lấn. Đế Phật Tử ra hàng” (35)! Cương mục còn viết: “Phật Tử sợ, xin hàng” (35). Nếu chưa chiến đấu mà đã xin hàng thì thật ô nhục!

Như đã trình bày, sự thật lịch sử về Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử đã được nhân gian phủ lên một lớp sương mù huyền sử. Nói chính xác hơn, Triệu Quang Phục là nhân vật không còn thuộc thời kì huyền sử, nhưng là nhân vật lịch sử được điểm tô thêm bằng ẩn dụ lấy từ truyền thuyết lịch sử xa xưa.

Gạt đi các ẩn dụ lấy từ truyền thuyết, sẽ còn lại sự thật lịch sử.

a. Các sử gia bình luận về Triệu Quang Phục:

Toàn thư đã viết: “Vua giữ đất hiểm, dùng kì binh để đánh giặc lớn, tiếc vì quá yêu con gái đến nỗi mắc hoạ vì con rể”; “Vua họ Triệu, tên huý là Quang Phục, là con Triệu Túc, người Chu Diên, uy tráng dũng liệt, theo Nam đế đi đánh dẹp có công, được trao chức tả tướng quân” (36).

Có thể nói, Triệu Quang Phục là vị tổ của chiến thuật du kích.

Về việc mắc mưu kế hôn nhân – nội gián, Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Đàn bà gọi việc lấy chồng là “quy” thì nhà chồng tức là nhà mình. Con gái vua đã gả cho Nhã Lang thì sao không cho về nhà chồng mà lại theo tục gửi rể của nhà Doanh Tàn để đến nỗi bại vong” (37)!

Mưu kế hôn nhân – nội gián ấy, thời nay, đa số vợ chồng trẻ đều ra riêng (sống ở nhà riêng), hẳn cũng khó lòng cho lực lượng thù địch, ngoại xâm trong việc “cài người”, nhưng vẫn là bài học kinh nghiệm lịch sử.

4
Kết luận

Trong tình thế bị kẹp giữa hai gọng kìm lịch sử (Trung Hoa, Lâm Ấp) và dưới ách đô hộ tàn bạo (Trung Hoa) như thế, dẫu sao, Lý Bí (Lý Bôn), Triệu Quang Phục vẫn bẻ gãy được gọng kìm nhỏ nhưng sắc nhọn là Lâm Ấp, đập tan cả gọng kìm lớn và ách đô hộ nghiệt ngã Trung Hoa, để xây dựng được một triều đại tự chủ, độc lập cho dân tộc, kéo dài đến gần 60 năm (544 – 602). Trong đó, có ba mươi hai năm (571 – 602) Lý Phật Tử nắm ngai vàng, thực ra cũng là nhờ công lao kháng chiến gian khổ và oai danh của Lý Bôn (5 năm) và của Triệu Quang Phục (22 năm). Toàn thư và Cương mục đã phê phán Lý Phật Tử thật đích đáng, tôi thấy không cần phải trích dẫn ở đây.

Tôi chỉ đề cao mỗi một Triệu Quang Phục.

Triệu Quang Phục mãi mãi là một nhân vật lịch sử cao đẹp, uy dũng và bi tráng.

Tôi muốn được một lần nữa lặp lại để nhấn mạnh điều này: Triệu Quang Phục là nhân vật không còn thuộc thời kì huyền sử, nhưng là nhân vật lịch sử được điểm tô thêm bằng ẩn dụ lấy từ truyền thuyết lịch sử xa xưa.

Triệu Quang Phục mãi mãi là một chiến tướng lớn, vị tổ của chiến thuật du kích, một vị vua kháng chiến thắng lợi của người Việt Nam chúng ta.

 

Cước chú của bài Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (nhà Tiền Lý)…:

(*) Gọi là nhà Tiền Lý và nhà Hậu Tiền Lý để phân biệt với nhà Hậu Lý (Lý Công Uẩn) về sau. Gọi là nhà Triệu – Việt để phân biệt với nhà Triệu – Hán (Triệu Đà) thuở trước.

(**) Xem thêm: La Quán Trung, Tam quốc diễn nghĩa, tiểu thuyết lịch sử, viết theo quan điểm phù Hán

(1) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (gọi tắt là Cương mục), tiền biên và chính biên, bản dịch (2 tập), tập 1, Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 144 (Tb. [tiền biên], q. [quyển] III, [tờ] 10).

(2) Năm sau, Ất dậu (265), mới là năm Thái Thuỷ thứ 1 của nhà Tấn, đời Vũ đế. Lúc này (264) vẫn còn là niên hiệu nhà Ngụy.

(3) Kể thêm hai triều Ngô (222 – 280), Đông Tấn (317 – 420) trước đó, sử sách thường gọi là Lục triều. Cương mục, sđd., tập 1, tr. 166 (Tb. [tiền biên], q. [quyển] III, [tờ] 33): Cước chú của dịch giả Tổ Biên dịch VSH.: “Theo Tống sử, truyện Trương Thủ, […], sáu triều đại này kế tiếp nhau đóng đô ở Kiến Khang, tức Nam Kinh bây giờ”.

(4) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 162 (Tb., III, 29). Cương mục và Toàn Thư (Đại Việt sử kí toàn thư [gọi tắt là Toàn thư], bản in nội các quan bản [1697], bản dịch [3 tập], tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003), hai bộ sử của nước ta đều chép Lý Trường Nhân là người Giao Châu. Trường hợp Lý Trường Nhân cũng như Lương Long (khởi nghĩa năm Tân dậu [181], xem: Cương mục, sđd., tập 1, tr. 126 [Tb., II, 23 – 24], hiện nay, chưa có tư liệu để xác định cụ thể về nguyên quán và dân tộc của hai nhân vật này. Tôi đoán rằng, đó là hai người Bách Việt ta trên vùng đất phía bắc thuộc lãnh thổ Giao Chỉ bộ (Giao Châu). Lý Trường Nhân (năm 468) có lẽ có quê quán cụ thể là quận Hợp Phố (Tượng Quận, về sau gọi là Liêm Châu), tức là Quảng Đông (thuộc Trung Quốc) ngày nay. Xin xem thêm cước chú (10).

(5) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 164 (Tb., III, 31).

(6) Xem thêm: Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, ấn quán Hồng Phát, Chợ Lớn – Sài Gòn, 1958.

(***) Lê Tắc, An Nam chí lược (thuộc Tứ khố toàn thư, Trung Hoa), bản dịch của Uỷ ban Phiên dịch sử liệu Viện Đại học Huế (GS. Trần Kinh Hoà cố vấn), Viện Đại học Huế xb., 1961; Nxb. Thuận Hoá, TT. Văn hoá – Ngôn ngữ Đông Tây tái bản, 2002, tr. 266 – 267: Lê Tắc xác định Đỗ Tuệ Độ là con trai của Đỗ Viện, người huyện Chu Diên (xem (9)) thuộc quận Giao Chỉ, đồng thời ghi lại ý kiến khác: Đỗ Viện người Kinh Triệu (Trung Hoa), ông nội Viện làm thái thú Hợp Phố rồi định cư ở Giao Chỉ. Tôi nghĩ, họ Đỗ này phải là người Hán mới được bổ nhiệm nhiều đời làm quan đến chức thái thú các quận, và cả chức thứ sử Giao Châu

(7) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 158 (Tb., III, 24).

(****) Xin nhắc lại ý tưởng: vấn đề Lâm Ấp (Hoàn Vương, Chiêm Thành) khởi đầu và chung quy vẫn là vấn đề nội bộ của lịch sử Việt Nam (+) từ cổ đại (kể từ thời điểm Khu Liên kháng chiến chống nhà Hán [Trung Hoa], tách ra khỏi cộng đồng dân tộc để lập vương quốc riêng, vào năm Đinh sửu [137] ((()) cho đến khi lại sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam cận đại (thời chúa Nguyễn Phúc Chu ở Đàng Trong, cũng năm Đinh sửu [1697] (++). Trong những triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn về sau, số lượng người Chăm ra Bắc Trung bộ, Bắc bộ định cư khá lớn.

(+) Nỗi đau lịch sử Chiêm Thành là nỗi đau nhập thân của Chế Lan Viên, đồng thời đó cũng là nỗi đau thời Pháp thuộc với nhận thức, tín niệm về nhân quả – nghiệp chướng của ông, thể hiện trong tập thơ Điêu tàn. Nỗi đau Điêu tàn ấy được cảm nhận:

đức tin nghiệp chướng ngây ngô

niềm mất nước hoá giấc mơ kinh hoàng

thơ ai trên gạch tháp Chàm

mười bảy tuổi, vội Điêu tàn tóc xanh

bóng ma gào khóc chiến tranh

đau trong đau, đã kết thành, triệu năm…

                                                                        TXA.

(++) Không phải là năm 192 như nhiều sách viết. Xem: Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2002, tr. 121; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, 1964, tr. 328. Xin xem thêm phụ lục thơ của người viết ở cuối sách.

(*****) Lê Tắc, An Nam chí lược, sđd., tr. 157 – 158 & tr. 60, 284: Xem bài biểu của vua nước Lâm Ấp đệ gửi vua Tống (Trung Hoa) với ý muốn cai quản cả Giao Châu, trong cuốn sách này, số trang đã dẫn. Lê Tắc xác định nước Lâm Ấp thành lập trên vùng đất nguyên là huyện Tượng Lâm, nhưng chắc hẳn đã nhầm khi cho rằng huyện Tượng Lâm ấy chính là quận Bố Chính thời Trần (nay là hai huyện Quảng Trạch, Bố Trạch ở phía bắc Quảng Bình). Thật ra, theo Đào Duy Anh (sđd., (***), tr. 122 – 125), huyện Tượng Lâm là đất tỉnh Quảng Nam ngày nay (và kéo dài đến đèo Đại Lãnh, tỉnh Khánh Hoà hiện tại?!?), kinh đô của nước Lâm Ấp là Trà Kiệu. Xem thêm: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 5 – 14.; chú thích (*) của phần phụ lục chương II, sách này.

(8) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 168 (Tb., IV, 2). TXA. iđ & ct. Theo lời chua & cước chú: Đền thờ Lý Bôn (Lý Bí) ở xã Từ Đường, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Bình, tỉnh Nam Định, nay là thôn Tử Các, xã Thái Đô, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình. Hẳn quê hương ông là ở đấy.

(9) Cương mục, sđd., tập 1, 114 (Tb., II, 10): Lời chua của Quốc sử quán triều Nguyễn: Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây (cước chú của dịch giả: tỉnh Vĩnh Phúc).

(10) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 144 (Tb., III, 10): “Năm Giáp thân (264) […].Năm ấy, nhà Ngô cắt ba quận Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm đặt làm Quảng Châu, châu lị ở Phiên Ung; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố làm Giao Châu, châu lị ở Long Biên. Việc chia ra Giao Châu và Quảng Châu bắt đầu từ đấy”. Xem thêm: Cương mục, sđd., tập 1, tr. 168 (Tb., IV, 2): lời chua. TXA. iđ & ct.

(11) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 167 (Tb., IV, 1). TXA. iđ & ct.

(11) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 167 – 168 (Tb., IV, 1). TXA. iđ & ct. Xem thêm về thể chế tuyển dụng này trong cuốn Lịch sử Việt Nam của Đào Duy Anh, Nxb. VHTT, 2002, tr. 135.

(12) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 252 (NK., q. IV, tờ 15a – 15b); Cương mục, sđd., tập 1, tr. 169 (Tb., IV, 3). TXA. iđ & ct.

(13) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 168 & 169 (Tb., IV, 1 & 3). TXA. iđ & ct.

(14) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 169 (Tb., IV, 3 – 4 ). TXA. iđ & ct.

(15) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 170 – 171 (Tb., IV, 4 – 5). TXA. iđ & ct.

(16) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 173 (Tb., IV, 7). TXA. iđ & ct.

(17) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 173 (Tb., IV, 7). TXA. iđ & ct.

(18) Toàn Thư (Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003, tr. 251 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] IV, [tờ] 15a).

(19) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 250 (NK., q. IV, 14b).

(20) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 251 (NK., q. IV, 15a): cước chú của dịch giả Ngô Đức Thọ. Trích: Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, 1964, tr. 52 – 53. TXA. iđ. & ct. Xem: Lý Tế Xuyên (Chư Cát thị hiệu đính, bổ sung), Việt điện u linh, Trịnh Đình Rư dịch, Đinh Gia Khánh hiệu đính và bổ sung bản dịch, Nxb. Văn Học tái bản, 1972, tr. 125: Lý Bôn phong Triệu Thị Trinh là Giản chính phu nhân; nhà Hậu Lý gia phong chữ Quý, truy tặng là Anh liệt phu nhân; nhà Trần lại gia phong: Hùng tài, Vĩ tích, Anh mẫn, đến năm Hưng Long thứ 21 (triều Trần Anh Tông, 1313), lại thêm một lần gia phong là Trinh nhất phu nhân.

(21) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 143 (Tb., III, 9). TXA. iđ & ct. Trần Trọng Kim hầu như cũng xác định “giặc Man Di quận Cửu Chân” ấy chính là lực lượng do Triệu Quốc Đạt làm thủ lĩnh (xem (20)).

(22) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 256 (NK., q. IV, 17b).

(23) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 172 (Tb., IV, 7). TXA. iđ & ct.

(24) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 178 (Tb., IV, 12 – 13). TXA. iđ & ct.

(25) Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2002, tr. 137 – 138. Đào Duy Anh căn cứ vào nghi vấn: H. Maspéro, “La dynastie des Lý antérieurs = Nhà Tiền Lý”, BEFEO. (Bulletin des l’Êcole française d’Extrême-Orient), XVI; và phản biện của Đào Duy Anh.

(29) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 254 – 255 (NK., q. IV, 17a – 17b). TXA. iđ & ct.

(30) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 257 (NK., q. IV, 18b – 19a). TXA. iđ & ct.

(31) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 257 – 258  (NK., q. IV, 19a). TXA. iđ & ct. Không lâu về sau, Trần Bá Tiên chính là kẻ cướp ngôi nhà Lương để lập nên nhà Trần (557 – 590). Trần Hậu Chủ, tác giả bài Hậu đình hoa (“đêm đêm còn hát Hậu đình hoa”), chính là con cháu Trần Bá Tiên. Xem bài: “Bạc Tần Hoài” của Đỗ Mục, đời Đường (Trung Hoa).

(32) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 258 – 259  (NK., q. IV, 19b – 20a). TXA. iđ & ct.

(33) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 261  (NK., q. IV, 21b). TXA. iđ & ct.

(34) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 177 (Tb., IV, 12): lời chua của Quốc sử quán triều Nguyễn và cước chú của dịch giả Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp (Viện Sử học).

(35) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 179 (Tb., IV, 13 – 14). TXA. iđ & ct.

Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 262  (NK., q. IV, 22a): Nguyên văn bản dịch trong Toàn thư có ghi nhận rõ: “[Lưu Phương, tướng Tàu – ct.] đến núi Đô Long gặp giặc cỏ, Phương đánh tan hết, rồi tiến quân sang đến cạnh dinh vua [Lý Phật Tử – ct.], trước lấy hoạ phúc mà dụ. Vua sợ, xin hàng, bị đưa về Bắc [tức Trung Hoa – ct.] rồi chết”. Cước chú của dịch giả: “Nguyên văn [chữ Hán nguyên tác – ct.]: ngộ thảo tặc; hai chữ “thảo tặc” đáng phải sửa lại là vì soạn giả dùng sử liệu của Trung Quốc, không chỉnh lí. Thông giám và Tuỳ thư, Lưu Phương truyện nói rõ đó là quân của Lý Phật Tử, hơn hai nghìn người” (bản dịch, sđd., tr. 262). TXA. ing., iđ & ct.

Như vậy, đội quân 2.000 viên lính ấy có thể là lính trấn thủ của Lý Phật Tử, cũng có thể là quân được Lý Phật Tử phái đi chặn giặc xâm lược. Nếu ở trường hợp thứ hai, chứng tỏ Lý Phật Tử có ra lệnh chiến đấu, khi đã thất bại mới đầu hàng. Trường hợp này, đỡ ô nhục hơn.

(36) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 256  (NK., q. IV, 18a).

(37) Toàn Thư, tập 1, sđd., tr. 259  (NK., q. IV, 20b).


2. MAI HẮC ĐẾ, NGƯỜI ANH HÙNG KHỞI NGHĨA (772), VỊ VUA BỊ MANG TIẾNG LÀ “TƯỚNG GIẶC” SUỐT MẤY TRĂM NĂM TRONG SỬ SÁCH

 

1

Sau triều đại độc lập, tự chủ do Lý Bôn và Lý Phật Tử, đặc biệt là do Triệu Quang Phục, khởi nghĩa, kháng chiến thành công và xây dựng nên trong quãng thời gian 61 năm (541 – 602), Giao Châu ta lại bị bọn phong kiến Trung Hoa tái xâm lược và chiếm đóng.

Ở phía nam Trung Hoa, hết triều Lương (502 – 556) lại đến triều Trần (557 – 589). Sau đó, nhà Tuỳ thống nhất cả Hoa nam lẫn Hoa bắc với một đế chế như Tần, Hán, Tấn thuở trước. Nhưng nhà Tuỳ chỉ tồn tại trong 37 năm (581 – 618).

Lý Uyên cướp ngôi nhà Tuỳ, vào năm 618, lập nên nhà Đường (618 – 907). Trong thời sơ Đường (618 – 713), triều chính của triều đại này bị lũng đoạn, khuynh đảo bởi hai thái hậu, Võ thị (Vũ Tắc Thiên) và Vi thị. Bước sang thời trung Đường (713 – 823), triều đình Hán tộc này lại bị nổ ra cuộc biến động do người Phiên tộc An Lộc Sơn (755) chỉ huy tấn công. Lại tiếp đến là những cuộc nổi dậy, khởi nghĩa ở các vùng biên, phiên trấn của các tộc người bị nhà Đường đô hộ (Thổ Phồn, Hồi Hột), trong suốt 60 năm, khiến có lúc vua Đường với cung tần mĩ nữ phải bỏ kinh đô Trường An để trốn lánh ra Thiểm Châu (Hà Nam) (1).

Diễn biến ở Trung Hoa tất nhiên có tác động rõ rệt vào nước ta.

Thời đế chế Tùy, sau khi củng cố quyền lực tại chính quốc, Lưu Phương được lệnh kéo quân sang Giao Châu ta. Chỉ một trận đánh, y đã quy phục được tên vua hèn nhát Lý Phật Tử, bắt y giải giao về Phương Bắc. Tiếp đến, Lưu Phương được vua Tuỳ phong chức hành quân tổng quản đạo Hoan Châu, kéo quân đi đánh Lâm Ấp, cướp phá tan hoang. Nhưng tên giặc Lưu Phương cũng chết vì bệnh dọc đường về.

Khi nhà Đường cướp ngôi nhà Tuỳ xong, đến đời Cao Tông, vào năm Kỉ mão (679), nước ta bị đổi thành An Nam đô hộ phủ, nước phải chia ra 12 châu!

Đến năm Đinh hợi (687), người Lý (một nhân tộc thiểu số) ở nước ta khởi nghĩa với hai người lãnh đạo là Lý Tự Tiên, Đinh Kiến, giết được tên thực dân đầu não đô hộ phủ là Diên Hựu. Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, người trước kẻ sau, đều bị hi sinh.

Nội tình Trung Hoa thời sơ Đường, trung Đường diễn ra những chính biến, biến động, nhất là các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa ở phía tây bắc như thế, nên nhân thời cơ đó, Mai Thúc Loan đã khởi nghĩa, liên minh với các nước láng giềng để giành lại nền độc lập, tự chủ cho dân tộc.

2
Tại sao Mai Hắc đế bị mang tiếng là “tướng giặc” trong sử sách?

Không phải nói đến sách sử của đối phương, những sử gia Trung Hoa, vốn xem Mai Thúc Loan (Mai Hắc đế) là tướng giặc. Điều đó chẳng có gì lạ! Về sau này, trong lịch sử cận đại, những sách sử của giặc Pháp xâm lược, các học giả thực dân cũng gọi những nghĩa sĩ, vị quan yêu nước, bình Tây sát tả, những ai kháng chiến chống lại ách “bảo hộ” của chúng, đều là giặc, là nghịch tặc, bè lũ phản loạn.

Chúng ta đã biết, ngay Trưng Trắc – Trưng Nhị, hai vị anh hùng chống ngoại xâm, thuộc vào bậc nhất trong giới phụ nữ từ xưa đến nay, của lịch sử nước ta và của lịch sử thế giới, cũng đã bị sử gia Trung Hoa (tác giả bộ sách Hậu Hán thư, ở mục Mã Viện truyện (2)) gọi là giặc. Mặc dù không hoàn toàn là người Hán – Hoa, Lê Tắc, tác giả An Nam chí lược, vẫn ghi rõ theo quan điểm của y rằng: Trưng Trắc, Triệu Thị Trinh, Lý Bí, Dương Thanh đều là “những kẻ phản nghịch”, còn Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền đều là “những kẻ tiếm thiết” (3).

Điều đáng nói là ngay chính Đại Việt sử kí toàn thư (4), bộ sử lớn của nước ta, được xem là tư liệu gốc của ngành khoa học lịch sử từ xưa đến nay, lại viết rõ Mai Thúc Loan là tướng giặc. Và ghi chép về vị anh hùng dân tộc này, Toàn thư cũng chỉ viết vài ba dòng:

Toàn thư ghi: “Nhâm tuất, [722], (Đường, Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn. Vua Đường sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở Khách đánh dẹp yên được” (5).

Chúng ta biết rằng, Đại Việt sử kí toàn thư là bộ sử tập đại thành của những bộ sử trước đó, đặc biệt là Đại Việt sử kí (1272) của Lê Văn Hưu (1230 – 1322). Cho đến Toàn thư được khắc in vào năm Chính Hoà [1697] (nhà Hậu Lê, thời trung hưng), bộ sử đã được các sử gia Quốc sử viện, Sử quán khảo đính, chỉnh lí, bổ sung một cách hết sức cẩn trọng. Nhưng đến bản hoàn chỉnh, khắc in, công bố này, những dòng sử viết về Mai Thúc Loan vẫn thế. Tất nhiên bản dịch hiện nay không thể tuỳ tiện sửa đổi, mà phải tuân thủ tối đa, tuyệt đối nguyên tắc phiên dịch thư tịch cổ, nhất là các bộ sách được thẩm định là tư liệu gốc.

Như vậy, ít ra là cho đến năm 1697, Mai Thúc Loan (Mai Hắc đế) vẫn bị xem là “tướng giặc” ư? Nỗi oan khuất ấy kéo dài đến vậy sao?

Thật ra, mặc dù Toàn thư, bản Chính Hoà (1697) vẫn vậy, nhưng từ 1554, sử gia Lê Tung đã minh oan và minh định cho vị anh hùng Hắc đế này trong bài “Việt giám thông khảo tổng luận”. Bài viết này được trang trọng đặt ở phần mở đầu của bộ sử Toàn thư. Từ bấy đến nay, ngay ở bản dịch của Viện Sử học (4), bài Tổng luận của Lê Tung vẫn còn được đặt ở vị trí trang trọng đó.

Như vậy, phần nội dung trong Toàn thư, phần ngoại kỉ, quyển V, tờ 4b, không có gì thay đổi. Sự thay đổi về quan điểm nhận định chỉ có ở bài Tổng luận (1554) của Lê Tung. Nói cách khác, Mai Thúc Loan vừa là anh hùng yêu nước, chống nhà Đường (Trung Hoa) xâm lược, vừa là tướng giặc, ở hai phần (tổng luận, ngoại kỉ) ngay trong một bộ sử.

Lê Tung đã bình luận như thế nào về Mai Hắc đế? Ông viết: “Mai Hắc đế, nổi lên từ Châu Hoan, căm giận chính lệnh tàn ngược của Sở Khách, cất quân tiến đánh, phía nam giữ đất Hải Lĩnh, phía bắc chống lại nhà Đường, có thể gọi là bậc vua hào kiệt. Tiếc rằng không tài chống giặc, lòng người ít theo, nên không thể át nổi cái loạn Dương Tư Húc” (6).

Rõ ràng lập trường, quan điểm địch – ta ở đoạn trên trong bài Tổng luận của Lê Tung là đã rất minh bạch, đúng đắn (mặc dù Lê Tung còn lẫn lộn ở những trang, đoạn viết về các nhân vật, triều đại khác như về Triệu Đà và nhà Triệu – Hán của y, về Nhâm Diên, Tích Quang, Sĩ Nhiếp, vốn là những tên hiệu uý, thái thú Trung Hoa thuộc bọn phong kiến thực dân cổ đại!).

Thực trạng của sử sách là như thế và cũng không có gì lạ.

Nhưng thử tìm hiểu nguyên nhân vì sao như thế?

Thứ nhất là, các sử gia nước ta như Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy tất nhiên đã sử dụng và tham khảo các thư tịch cổ của triều đại đối phương ở Trung Hoa. Lập trường, quan điểm giữa nước ta và các triều đại Trung Hoa xâm lược là trái ngược nhau 1800, như nước với lửa, một trời một vực. Vả lại, có những trường hợp sử gia Trung Hoa viết mơ hồ, vu khoát, mà các sử gia nước ta khảo đính, chỉnh lí chưa tốt.

Thứ hai là, trường hợp Mai Hắc đế (Mai Thúc Loan) là một trường hợp khá đặc biệt, cơ chừng là do quan điểm về nhân tộc (sắc tộc) của các sử gia và bởi sự liên minh của Mai Hắc đế với các nước như Lâm Ấp, Chân Lạp, vốn là đất nước của các nhân tộc (Chăm, Kh’mer…) có màu da nâu đen như Mai Hắc đế, trong sự nghiệp chung sức chống bọn phong kiến nhà Đường Trung Hoa xâm lược, chiếm đóng. Thêm vào đó, thuở bấy giờ, ba quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ luôn bị bọn cầm quyền nước Lâm Ấp đánh phá, mưu toan xâm chiếm để bành trướng lãnh thổ Lâm Ấp ra phía bắc (7), hoặc quân Chà Và, Côn Luân… liên tục tấn công nhằm cướp bóc tài sản, bắt người làm nô lệ (mục tiêu nhiều cuộc chiến tranh hồi đó ở nhiều nước Âu – Á – Phi – Mỹ (*) là như thế!).

Thật ra, Lê Tung (1554) đã thanh minh và đã ca ngợi công đức cứu nước, cứu dân, chống giặc Tàu ngoại xâm của Vua đen họ Mai. Rất rõ ràng là Mai Thúc Loan xưng đế. Dưới đế còn có vương, bá, hầu. Trên đế là không còn ai nữa. Mai Hắc đế không chịu phụ thuộc vào vương quyền nước nào. Lâm Ấp, Chân Lạp chỉ là đồng minh nhỏ, nhỏ so với Giao Châu (Việt Nam). Ông cũng không hề mặc cảm, mà lại tự hào về màu da đen của mình: Hắc đế là vị hoàng đế da đen.

Tuy vậy, Lê Tung trong Toàn thư hé lộ cho hậu thế thấy, rõ ràng ngoài nhận định “không tài chống giặc” hơi oan uổng, là có sự kì thị (“lòng người ít theo”) chăng? Phải chăng vì lòng người ít theo nên khó khăn trong việc chống giặc Đường Trung Hoa?

3
Mai Hắc đế trong sử sách về sau

Cương mục (8) ghi chép và khảo đính: “Năm Nhâm tuất (722). (Đường, Huyền Tông, năm Khai Nguyên thứ 10). Tháng 7, mùa thu. Ở Hoan Châu, Mai Thúc Loan giữ lấy châu, tự xưng đế. Nhà Đường, sai bọn nội thị Dương Tư Húc sang đánh, phá được. Theo Đường thư, khoảng năm Khai Nguyên (713 – 741), An Nam (9)  có Mai Thúc Loan làm phản, tự xưng là Hắc đế, chiêu tập quân 32 châu, ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân, giữ vùng biển nam, quân số có đến 40 vạn. Tư Húc xin đi đánh, chiêu mộ hơn mười vạn quân, cùng với Quang (10) Sở Khách tiến theo đường cũ của Mã Viện, nhân lúc bất ý, sập đến đánh. Thúc Loan Hoang mang nao núng, không kịp mưu tính cách đối phó, bị thua to. Tư Húc mới chôn những xác chết chung vào một nơi, đắp thành cái gò cao (Kình quán), để ghi chiến công của mình, rồi rút quân về” (11).

Lời cẩn án của Cương mục“Trộm nghĩ Thúc Loan chẳng qua giữ được một châu, thế lực cũng nhỏ. […]. Sử cũ cũng chép Thúc Loan ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân có 30 vạn, có lẽ cũng cứ dựa qua Đường thư, chứ chưa xét đến sự thực” (12).

Nhưng trong thực tế khảo đính, đó chỉ là lời cẩn án, còn phải khảo cứu thêm.

Có một chi tiết Cương mục chua rất rõ: “Mai Thúc Loan: Người Mai Phụ, huyện Thiên Lộc, Hoan Châu, bây giờ thuộc huyện Can Lộc, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thúc Loan người đen lắm, nên người Hoan Châu gọi là Hắc đế. Nay còn có vết thành cũ ở núi Vệ thuộc huyện Nam Đường và có đền thờ ở Hương Lãm thuộc huyện ấy. Đền này được liệt vào hàng đền thờ đế vương các triều đại” (13).

Chính câu cuối của đoạn trích dẫn trên là cả một sự thẩm định cho thuở bấy giờ và cho muôn thuở: “Đền này được liệt vào hàng đền thờ đế vương các triều đại”.

Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn ghi nhận: “Đền Mai Hắc đế: ở địa phận xã Hương Lãm, huyện Nam Đường. Thần họ Mai, tên Thúc Loan, mặt sắt, mình đen, hình dáng hùng vĩ, nhiều người tin tưởng vui theo. Bấy giờ nước ta thuộc nhà Đường, khoảng niên hiệu Khai Nguyên, Quang Sở Khách làm đô hộ An Nam, chính lệnh tham bạo, dân không chịu nổi, nhiều người phải trốn vào rừng làm việc trộm cướp. Thúc Loan bèn dấy quân ở Hoan Châu, những người trộm cướp ở các quận đều hàng phục, bèn liên kết với các nước Lâm Ấp và Chân Lạp, số quân có đến 30 vạn, chiếm cứ Giao Châu mà xưng đế, đóng ở thành Vạn Yên (Sa Nam). Nhà Đường sai nội thị là Dương Tư Húc đem quân sang đánh, vua bèn rút quân đến đóng ở núi Hùng Sơn. Khi mất, táng ở phía nam núi đất, người địa phương lập đền thờ” (14).

Đó là những lời và lẽ xác đáng, trang trọng, Quốc sử quán triều Nguyễn viết về Hắc hoàng đế Mai Thúc Loan, một vị anh hùng dân tộc, khi chết đã được nhân dân phong Thần.

Từ đó, mặc dù sử gia này, học giả khác có những hạn chế nhất định, nhưng cả Trần Trọng Kim với Việt Nam sử lược (1921), lẫn Đào Duy Anh với Lịch sử Việt Nam (1955, 1957) cũng như các nhà sử học trong Nam ngoài Bắc (Phan Khoang, PGS. Nguyễn Cảnh Minh…) đều đồng lòng khẳng định những đóng góp cho sự nghiệp chống bọn phong kiến xâm lược Trung Hoa của Vua đen Mai Thúc Loan, đều đồng thanh ca ngợi công đức của ông và quân dân do ông lãnh đạo khởi nghĩa thuở đó.

Cước chú của bài Mai Hắc đế, người anh hùng…:

(1) Xem: Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, ấn quán Hồng Phát, Chợ Lớn, 1957.

(2) Xem: Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2002, tr. 98.

(3) Lê Tắc, An Nam chí lược (thuộc Tứ khố toàn thư, Trung Hoa), bản dịch của Uỷ ban Phiên dịch sử liệu Viện Đại học Huế (GS. Trần Kinh Hoà cố vấn), Viện Đại học Huế xb., 1961; Nxb. Thuận Hoá, TT. Văn hoá – Ngôn ngữ Đông Tây tái bản, 2002, tr. 226, 276.

(4) Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003.

(5) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 269 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] V, [tờ] 4b). TXA. iđ..

(6) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 153 (TL. [tổng luận], [tờ] 6b). TXA. iđ..

(7) Trong bài trước tôi đã viết về sự thể này: Đây là bi kịch chua xót nhất trong quy luật về sự tồn sinh của mọi sinh vật, nhất là sinh vật cấp cao là động-vật-người! Xin khẳng định thêm: Tôi chỉ lên án bọn cầm quyền Lâm Ấp. Bao giờ tôi cũng nghĩ nhân dân Lâm Ấp (và nhân dân các nước nói chung) vốn là nạn nhân của bọn cầm quyền ấy trong các cuộc chiến tranh xâm lấn.

(*) Vấn đề đã viết ở cước chú (7) của bài này, xin viết rõ hơn để hiểu hết bi kịch chua xót này của nhân loại và để tránh những ngộ nhận, những áp lực: Đó là tội ác và bi kịch của nhân loại ở châu Mỹ, châu Âu, châu Úc và cả ở châu Á. Châu Mỹ của dân tộc nào? Ai xâm lược châu Mỹ và tiệu diệt người “da đỏ” bản xứ? Châu Úc (châu Đại Dương) của dân tộc nào? Ai xâm lược và tiêu diệt thổ dân châu Úc? V.v…

(8) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (gọi tắt là Cương mục), tiền biên và chính biên, bản dịch (2 tập), tập 1, Nxb. Giáo Dục, 1998.

(9) Nhà Đường (Trung Hoa), vào năm Kỉ mão (679), tháng tam, đổi Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ. Xem: Cương mục, sđd., tập 1, tr. 183 (Tb. [tiền biên], q. [quyển] IV, [tờ] 17 – 18).

(10) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 188 (Tb., IV, 22): Không phải Nguyên Sở Khách như Toàn thư ghi – lời chua của Quốc sử quán triều Nguyễn.

(11) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 187 (Tb., IV, 21). TXA. iđ..

(12) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 187 – 188 (Tb., IV, 22).

(13) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 188 – 189 (Tb., IV, 23).

(14) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 188 – 189. TXA. iđ..


3. BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG, NGƯỜI ANH HÙNG KHỞI NGHĨA (791) ĐƯỢC TÔN VINH BẰNG MỘT TÔN HIỆU RẤT VIỆT

 

 1
Vài nét về bối cảnh lịch sử

Bấy giờ, ở Trung Hoa, mặc dù cuộc khởi nghĩa của tộc người Phiên do An Lộc Sơn chỉ huy (755) đã trôi qua khá lâu, nhưng ở các vùng biên giới, các phiên trấn, các tộc người phi Hán – Hoa vẫn không chịu sáp nhập vào trung nguyên, thậm chí dân tộc Thổ Phồn còn thừa cơ để chiếm cứ dần đất đai, tấn công vào tận kinh đô Trường An như An Lộc Sơn dạo trước. Theo lệnh vua Đường, Quách Tử Nghi phải chiêu dụ dân tộc Hồi Hột đem quân đánh binh đội của người Thổ Phồn. Thổ Phồn đành xin hoà nhưng vẫn thỉnh thoảng tiến quân vào trung nguyên. Đồng thời, quân của nước Nam Chiếu (tỉnh Vân Nam) cũng muốn xâm lấn.

Cộng vào đó, thời trung Đường (713 – 823) này, các tiết độ sứ ở các phiên trấn lại liên minh với nhau để chống lại triều đình nhà Đường, khiến vua Đường không yên trên ngai vàng xây bằng xương máu, phải mấy lần bỏ kinh đô để chạy thoát thân.

Ở nước ta, năm 758, Đường – Huyền Tông lại đổi An Nam đô hộ phủ thành Trấn Nam đô hộ phủ, với ý định trấn áp mạnh mẽ hơn những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta. Tất nhiên, chúng cũng tăng cường sự mị dân như ban chiếu cho hai người đến hầu nuôi, quan đóng ở sở tại của chúng đến thăm viếng mẹ của Đào Tề Lượng (*) ở Giao Châu (767)!

Đến năm 768, chúng lại lấy tên cũ: An Nam đô hộ phủ.

Năm 783, vua nhà Đường là Đức Tông (Lý Quát), gặp phải biến động, phải rời kinh thành. Oái oăm thay, người tham mưu có hiệu quả cho Đức Tông trong việc đối phó với cuộc biến động này lại chính là một tiến sĩ sinh trưởng ở đất Cửu Chân nước ta: Khương Công Phụ. Y được Đức Tông phong đến hàm tước gián nghị đại phu, đồng trung thư môn hạ bình chương sự! Phải chăng Khương Công Phụ là tên ngụy quan học thức nhất, sau Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng (1)?

Theo Đào Duy Anh, thuế phú vẫn là cái khổ nặng nề nhất đối với dân ta. Thời sơ Đường, chế độ thuế phú của giặc ngoại xâm nhà Đường hẳn vẫn là tô dung điệu như ở Trung Hoa. Tô, đánh thuế trên từng suất ruộng. Dung, ngày công lao dịch phải đóng góp hằng năm. Điệu, số hàng hoá, sản vật phải nộp. Đến thời trung Đường, chúng thay bằng phép lưỡng thuế. Đó là hai thời điểm vụ hạ và vụ thu, dân ta phải nộp thuế, và nộp bằng tiền. Trên cơ sở tính số chi phí trong địa phương và số phải nộp về triều đình, quan chức đô hộ cứ tính toán thành định ngạch mà bổ vào đầu dân, chiếu theo số dân đinh và mức tài sản. Nông dân chỉ có lúa và vải, không có tiền, do đó quan lại tha hồ tuỳ tiện định giá, bọn phú hào đại thương tha hồ thao túng. Nhân dân rất khổ (2).

Trong bối cảnh đó, Phùng Hưng đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, kháng chiến.

2
Cuộc khởi nghĩa, kháng chiến lâu dài, và cuối cùng đã thành công, nhưng…

Đại Việt sử kí toàn thư (1) chép: “Tân mùi, [791], (Đường, [Đức Tông: Quát – ct.], Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc (3)) là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khoẻ, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766 – 780), đời Đường – Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ, phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa bao lâu thì chết. Con là An tôn xưng làm Bố Cái đại vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy [Bố Cái] làm hiệu). Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế (tức là Phu hựu chương tín sùng nghĩa Bố Cái đại vương. Đền thờ nay ở phường Thịnh Quang (4), phía đông nam (5) ruộng tịch điền).

Tháng 5, ngày tân tị, nhà Đường đặt quân Nhu viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh thìn, nhà Đường lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào cõi, lòng dân bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên cố hơn trước, ở chức 17 năm, vì đau chân xin về. Vua Đường chuẩn cho, lấy lang trung Bộ Binh là Bùi Thái thay Xương” (6) (7).

Cuộc khởi nghĩa và vây phủ thành, khiến tên giặc đầu sỏ Đô hộ phủ Cao Chính Bình phải bệnh mà chết, thực ra đã kéo dài suốt mười mấy năm trời, ít ra là từ 780 đến 791. Đó là quãng thời gian lâu dài, khởi nghĩa, kháng chiến rất cam go, gian khổ và cuối cùng đã thắng lợi. Rất tiếc là tới lúc đã thành công, Phùng Hưng chưa kịp thực hiện những thay đổi để cải thiện đời sống của nhân dân sau khi đã giành được độc lập, tự do, thì ông đã qua đời. Không phải như Toàn thư đã chép, rằng chính Phùng An đã tôn vinh cha là Bố Cái đại vương, mà chính như Cương mục đã điều chỉnh lại: “Dân chúng lập con là An lên làm Đô phủ quân, tôn Hưng làm Bố Cái đại vương” (8).

Nhưng rất tiếc Phùng An không kế tục được sự nghiệp cao cả đó, thậm chí chỉ nghe lời chiêu dụ của giặc là đã đầu hàng!

Có người sẽ cho rằng: Sự thể cha anh hùng, con hèn nhát tuy rằng không phải là chuyện lạ, nhưng dẫu sao, Phùng An cũng thật đáng trách, một khi đã nhận lấy trách nhiệm do nhân dân giao phó. Tuy nhiên, cũng phải thấy, cả Toàn thư lẫn Cương mục đã ghi rõ: “Xương vào cõi, lòng dân bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng” (6); “Theo sách An Nam kỉ yếu, bấy giờ Giao Châu chưa yên, Triệu Xương đến nơi, vỗ về phủ dụ, lòng dân mới yên. Triệu Xương sai sứ đến dụ Phùng An, Phùng An đem quân ra hàng” (9).

Theo tư liệu gốc của Trung Hoa, vốn do sử gia của nước họ ghi lại, là như thế. Cứ giả định, nếu quả thật sự thực lịch sử là vậy, thử đặt lại vấn đề! Chẳng lẽ lòng dân thuở bấy giờ đã đầu hàng trước, sớm hơn cả Phùng An? Tên giặc ngoại xâm Triệu Xương cũng quá thâm độc: y biết cách phỉnh phờ nhân dân trước, sau đó y mới chiêu hàng Phùng An! Nhân dân đã đầu hàng trước, Phùng An biết dựa vào đâu để chiến đấu? Nhưng chẳng lẽ là một vị vua, lại chính do nhân dân tôn lập để kế tục sự nghiệp kháng chiến, giành giữ độc lập, tự do cho dân tộc, lại không biết cách lãnh đạo quần chúng nhân dân? Ba khía cạnh của một vấn đề là ở đó (1. thái độ, lòng dân Việt; 2. sự mị dân của tướng giặc Trung Hoa; 3. thái độ, ý chí của Phùng An). Phải chăng tất cả đều có sự tương tác – liên quan và tác động lẫn nhau? Đây là một vấn đề cần suy nghĩ.

Cước chú của bài Bố Cái đại vương, người anh hùng…:

(*) Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, bản dịch Văn hoá Á châu, VHAC. xb., 1960, tr. 67: “Một người dân Giao Châu là Đào Tề Lượng họp đảng đánh cướp thành ấp” (dẫn theo GS. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. TP. HCM. tái bản, 1992, tr. 191). Căn cứ vào hành động “đánh cướp thành ấp” (+), và sự kiện vua Đường mị dân (đối xử với mẹ của Đào Tề Lượng rất mị bởi bà ta đã ngăn cản, tuyệt nghĩa với người con khởi nghĩa họ Đào này), ta thấy tất nhiên thành ấp là thành ấp của quân ngoại xâm chiếm đóng; từ đó, có thể nêu vấn đề: Phải chăng có thể cho rằng Đào Tề Lượng hoàn toàn không phải là đầu sỏ bọn cướp lục lâm thảo khấu thuộc loại xã hội phạm đáng trừng trị, mà chính là thủ lĩnh lực lượng khởi nghĩa chống ngoại xâm, áp bức. Và mọi hành vi của triều đình ngoại xâm (nhà Đường), dẫu bề ngoài thấy như là nghĩa cử tốt đẹp, thực chất đều là thủ thuật chính trị, ẩn giấu ý đồ xấu xa, vì quyền lợi thực dân của chúng. Nói chung, cần phải mổ xẻ tất thảy mọi sự kiện trong các bộ sử theo quan điểm sáng suốt nhất (công lí của dân tộc thống nhất với công lí nhân loại trong vấn đề chống ngoại xâm). Không phải tất thảy mọi trường hợp đều nhất nhất thế này hoặc nhất nhất thế khác một cách máy móc, trong việc xử lí tư liệu của giặc ngoại xâm (ở đây là sử Trung Hoa).

Nhân đây, xin nói rõ hơn, bao quát cả sử cổ – trung đại lẫn cận đại (từ khởi thuỷ đến trước thế kỉ XX): Có trường hợp gọi là giặc thì chỉ là giặc cướp xã hội phạm mà thôi; ngược lại, tuy bị gọi là giặc, nhưng lại là “giặc chính trị phạm”. Trong loại “giặc chính trị phạm” đó, phải phân biệt ra làm hai thứ: những lực lượng khởi nghĩa chống ngoại xâm (chính nghĩa) và những lực lượng phản động, phản dân hại nước (phi nghĩa).

Về trường hợp Đào Tề Lượng thời cổ đại, xin dè dặt nêu vấn đề như trên. Cần phải có nhiều tư liệu gốc (“Tứ khố đại thư” v.v…) được khai thác, tham khảo với quan điểm, lập trường đúng đắn, mới có thể đi đến kết luận khoa học và xác thực.

(+) Về chi tiết này, Ngô Thì Sĩ trong cuốn “Việt sử tiêu án” viết gần giống nhau về 3 nhân vật lịch sử: Lương Long, Triệu Thị Trinh và Đào Tề Lượng. Xin trích và in đậm để đối chiếu: “Người trong châu là Lương Long nhân thế mà tụ tập đến vài vạn người cướp bóc quận huyện”, “Mán Lương Long…” (sđd., tr. 45); “Sách Giao Chỉ chí chép: trong núi quận Cửu Chân có người con gái là Triệu Ẩu, cao 1 trượng 2, vú dài 3 thước, không lấy chồng, kết đảng cướp bóc quận huyện, thường mặc áo lụa vàng mỏng, đi dép sừng, cỡi voi ra trận chiến đấu…” (sđd., tr. 50); “một người dân Giao Châu là Đào Tề Lượng họp đảng đánh cướp thành ấp” (sđd., tr. 67). Tất nhiên ở trường hợp Triệu Thị Trinh, còn có nhiều chi tiết cụ thể rõ ràng hơn, để xác minh, kết luận chắc chắn về hành trạng của người con gái yêu nước, lãnh đạo kháng chiến, rất đỗi anh hùng này. Về Lương Long, xin xem thêm chú thích (4) của bài “Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và nhà Tiền Lý…” của tác giả.

Sách được đặt tên là “Việt sử tiêu án”, nhưng ở hai trường hợp Đào, Lương trên, nghi án sử học tồn đọng vẫn chưa triệt tiêu bằng cách làm rõ!

(1) Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003, tr. 223 – 224 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] III, [tờ] 8b – 9b).

(2) Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2002, tr. 146 & tr. 155.

(3) Lời chua của Quốc sử quán triều Nguyễn (Cương mục, Tb. IV, 26): “Phong Châu. Sử cũ chép lầm là Giao Châu, nay sửa lại”. Xin lưu ý: từ năm 679, nhà Đường chia nước ta ra làm 12 châu. Giao Châu là một trong 12 châu ấy. Giao Châu gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Hải Dương, Hà Đông, Nam Định. Xem: Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2002, tr. 145. Cước chú của dịch giả Ngô Đức Thọ (Toàn thư, sđd., tr. 271 [NK., q. V, 6a – 6b]): Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc, châu Phong [Châu], nay là xã Cam Lâm, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.

(4) Cước chú của dịch giả Ngô Đức Thọ: nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.

(5) Cước chú của dịch giả Ngô Đức Thọ: có lẽ là đông nam hay đông bắc.

(6) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 271 – 272 (NK., q. V, tờ 6a – 6b). TXA. in đậm (iđ.) & chua thêm (ct.).

(7) Xem thêm: Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (gọi tắt là Cương mục), tiền biên và chính biên, bản dịch (2 tập), tập 1, Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 192 (Tb. [tiền biên], q. [quyển] IV, [tờ] 26 – 27): lời chua của Quốc sử quán triều Nguyễn: “Xét Đường thư, bản kỉ, đời Đức Tông, năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), chỉ chép rằng tù trưởng An Nam là Đỗ Anh Hàn làm phản, chứ không chép việc Phùng Hưng, có lẽ vì ở cách xa nước ta, nên không rõ có việc Phùng Hưng”.

(8) Cương mục, sđd., tr. 191 (Tb. IV, 26). TXA. iđ..

(9) Cương mục, sđd., tr. 192 (Tb. IV, 27).


 

4. KHÚC THỪA DỤ, KHÚC HẠO, KHÚC THỪA MỸ, DƯƠNG DIÊN NGHỆ, VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC MỚI CỦA NGƯỜI VIỆT

 

1
Họ Khúc, thời cơ xuất hiện và thế lực, uy đức sẵn có

Cương mục (1) chép: “Năm Bính dần (906). (Đường, Chiêu Tuyên đế, năm Thiên Hựu thứ 3). Tháng giêng, mùa xuân. Nhà Đường phong chức đồng bình chương sự cho quan Tĩnh Hải quân tiết độ sứ là Khúc Thừa Dụ. Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu (2). Thừa Dụ, tính khoan hoà, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là tiết độ sứ và xin mệnh lệnh với nhà Đường; nhân thế vua Đường cho làm chức ấy” (3).

Như vậy, Khúc Thừa Dụ không phải là một lãnh tụ khởi nghĩa, giành lại chính quyền cho nhân dân Việt. Tiết độ sứ thực chất chỉ là một chức quan của nhà Đường phong cho các thủ lĩnh của những phiên trấn quanh trung nguyên. Tuy thế, vẫn có khác biệt với các chức quan khác, là tiết độ sứ có quyền thế tập, cha truyền con nối, lại nắm giữ tất cả mọi lĩnh vực, từ tài chính, dân chính đến quân sự, ở lãnh địa. Theo Phan Khoang, thậm chí có tiết độ sứ lại “tự thị” không nhận tướng sĩ của triều đình bổ nhiệm đến… (4). Hầu như đó là các tiểu vương mặc dù không được chính thức phong là tiểu vương. Khúc Thừa Dụ cũng gần như thế.

Ở thời điểm này, vua Chiêu Tông nhà Đường hẳn đã bị Chu Toàn Trung giết, và Đường – Ai đế được lập lên làm vua; cuối cùng, đến năm sau, 907, nhà Đường bị cướp ngôi vĩnh viễn!

Cương mục chép tiếp: “Năm Đinh mão (907), (Đường, năm Thiên Hựu thứ 4; Lương, Thái Tổ, năm Khai Bình thứ 1). Khúc Thừa Dụ mất, con là Hạo giữ Giao Châu, tự xưng là tiết độ sứ. Khúc Hạo nhờ vào cơ nghiệp cũ, giữ lấy La Thành, tự xưng là tiết độ sứ, chia đặt các lộ, phủ, châu, và xã ở các xứ; đặt ra chánh lệnh trưởng và tá [:phó – dg. ct.] lệnh trưởng, bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch; lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi. Chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui. Khi đó, nhà Lương dùng tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm lĩnh chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và phong cho tước Nam Bình vương. Lưu Ẩn giữ thành Phiên Ngung, Khúc Hạo giữ Giao Châu, tự xưng tiết độ sứ, hai bên chực thôn tính lẫn nhau” (5).

Lưu Ẩn là người Hán, làm tiết độ sứ ngay trên đất Bách Việt cũ (Giao Chỉ bộ bị chia hai, một bên thành Quảng Châu, một bên là Giao Châu). Y là quan chức nhà Đường, nay Đường tiêu vong, y tiếp tục công việc cũ, lại nhận tước gia phong là Nam Bình vương của nhà Lương mới thành lập. Và như sử cổ viết, một tình huống đối đầu bắt đầu diễn ra, giữa họ Khúc (Việt) với Lưu (Hán).

Mười năm sau, Đinh sửu (917), khi Lưu Ẩn chết, em của Ẩn là Nham nối ngôi. Ngay lúc mới nối ngôi, Nham đã quyết chí cát cứ, thành lập một vương quốc riêng, lấy quốc hiệu là Hán, tức là nước Nam Hán, đặt niên hiệu là Kiền Hanh.

“Khúc Hạo sai [con là] Thừa Mỹ sang Nam Hán kết mối hoà hảo. Thực ra, đó là mượn tiếng hoà hảo để dò xét tình hình hư thực” (6).

Cũng năm 917 ấy, “Khúc Hạo mất, con là [Khúc – ct.] Thừa Mỹ lên thay” (6).

Hai năm sau, năm Kỉ mão (919), nhà Lương ở trung nguyên Trung Hoa chính thức trao chức tiết độ sứ cai quản Giao Châu cho Khúc Thừa Mỹ, sau khi Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Lương để xin lãnh “tiết việt”. Theo suy nghĩ của Khúc Thừa Mỹ, đó là cách dựa vào một nước lớn (nước Lương tuy xa hơn), nhằm để ngăn bớt tham vọng của nước láng giềng (nước Nam Hán mặc dù gần hơn!).

Năm Quý mùi (923), ở Trung Hoa, Lý Tồn Húc đã diệt nhà Lương, lập nên nhà Hậu Đường! Thế là Khúc Thừa Mỹ bị hẫng chỗ dựa, chưa kịp sai sứ sang nhà Hậu Đường, thì đã bị quân Nam Hán chớp lấy thời cơ, tấn công. Bấy giờ, chúa nước Nam Hán là Lưu Cung (đổi tên vì kiêng cữ, dị đoan)!

“Theo sách An Nam kỉ yếu, trước kia, Lưu Cung [vốn tên là Lưu Nham – ct.] nghe nói Thừa Mỹ đã nhận “tiết việt” của nhà Lương, giận lắm, sai tướng giỏi là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh, bắt được Thừa Mỹ đem về” (7).

Lưu Cung liền sai tướng của y là Lý Tiến sang làm thứ sử, cùng với Lý Khắc Chính chiếm đóng, cai trị nước Giao Châu ta (923).

Thế là vai trò lịch sử của họ Khúc đã chấm dứt. Đó là một sự nghiệp cứu nước, cứu dân, tuy không hào hùng, chủ yếu nhờ vào uy đức vốn được nhân dân suy tôn, biết chớp lấy thời cơ lịch sử để bước đầu xây dựng nên một hệ thống nhà nước Việt của người Việt.

2
Dương Diên Nghệ, người anh hùng hai lần đánh bại quân Nam Hán

Sau khi Khúc Thừa Mỹ đã bị quân Nam Hán đánh bại, bắt về nước, Toàn thư (8) chép rõ diễn biến tiếp theo: “Lý Khắc Chính ở lại Giao Châu, bị tướng của Khúc Hạo là Dương Đình [:Diên – ct.] Nghệ, người Ái Châu, đánh đuổi. Vua [Nam – ct.] Hán trao cho Đình Nghệ tước vị, lấy Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành, bảo tả hữu rằng: ‘Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ có thể ràng buộc (ki mi) mà thôi’.” (9).

“Tân mão, [931], ([Hậu – ct.] Đường – Minh Tông, Tự Nguyên, Trường Hưng năm thứ 2). Mùa đông, tháng 12. Dương Đình Nghệ nuôi 3 nghìn con nuôi, mưu đồ việc khôi phục. Lý Tiến biết, sai chạy ngựa về báo cho vua [Nam – ct.] Hán. Năm ấy, Đình Nghệ đem quân vây Tiến. Vua Hán sai thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu, chưa đến nơi, thành đã mất. Tiến trốn về nước. Bảo đến vây thành, Đình Nghệ đưa quân ra đánh, Bảo thua chết. Từ đó Đình Nghệ tự xưng tiết độ sứ, trông coi việc châu” (10).

Năm Bính thân (936), nhà Hậu Đường ở Trung Hoa tiêu vong; Thạch Kỉnh Đường cướp ngôi lập nên nhà Hậu Tấn. Năm sau, 937, vào một ngày mùa xuân tháng ba, “nha tướng của Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn […] giết Đình Nghệ để thay chức” (11).

Người anh hùng với chiến công lừng lẫy, ít ra là đã hai lần đánh bại quân Nam Hán, khiến chúng hãi hùng, nhụt mộng xâm lăng, bỗng gặp phải cái chết hết sức đau lòng bởi kẻ thuộc hạ có lòng dạ xấu xa như thế!

Dẫu sao, từ lúc họ Khúc thực sự xây dựng chính quyền Việt của người Việt (906) cho đến thời điểm 937 này, trừ đi khoảng non 10 năm (923 – 931) Lý Khắc Chính và Lý Tiến kìm kẹp, chiếm đóng, Dương Đình Nghệ tuy thắng nhưng buộc phải “hoà”, còn lại, nhân dân ta đã được sống gần 20 năm độc lập tự do, lập nên những chiến công hiển hách.

Có một điều rất đáng tiếc, từ họ Khúc (Khúc Thừa Dụ,  Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ) đến Dương Đình Nghệ, nước ta vẫn chưa có một lãnh tụ xưng vương, xưng đế như trước kia, mà chỉ chịu “thừa lệnh, chấp hành”, trên danh nghĩa chỉ là tiết độ sứ, thần phục theo dạng hợp thức hoá như là quan chức được sai phái đến của bọn phong kiến Trung Hoa!

 

Cước chú của bài Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ, Dương Diên Nghệ…:

(1) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (gọi tắt là Cương mục), tiền biên và chính biên, bản dịch (2 tập), tập 1, Nxb. Giáo Dục, 1998.

(2) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 218 (Tb. [tiền biên], [quyển] V, [tờ] 14): Lời chua: Ninh Giang, Bình Giang thuộc tỉnh Hải Dương.

(3) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 217 – 218  (Tb., V, 14). TXA. in đậm (iđ.).

(4) Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, ấn quán Hồng Phát, Chợ Lớn – Sài Gòn, 1958, tr. 130 – 131.

(5) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 218  (Tb., V, 14 – 15). TXA. (iđ.). Lời chua: theo An Nam kỉ yếu, một thư tịch của Trung Hoa, không phải Khúc Thừa Dụ, mà chính Khúc Hạo, người Giao Chỉ, đã nhận chức tiết độ sứ nhà Đường thay Độc Cô Tổn! Khúc Hạo làm tiết độ sứ 4 năm thì mất!

(6) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 219  (Tb., V, 15). TXA. ct..

(7) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 220  (Tb., V, 16). TXA. ct..

(8) Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003.

(9) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 290 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] V, [tờ] 18a). TXA. iđ. & ct.. Ki mi (hoặc cơ mi), từ để chỉ sự vật cụ thể, có nghĩa là chính quốc thực dân chỉ ràng buộc lỏng lẻo, trao nhiều quyền tự chủ cho xứ bị lệ thuộc.

(10) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 291 (NK., q. V, tờ 18b). TXA. iđ. & ct..

(11) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 291 (NK., q. V, tờ 18b – 19a).


5. NGÔ QUYỀN HAY ĐINH BỘ LĨNH LÀ NGƯỜI KHAI SÁNG KỈ NGUYÊN ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ THỜI PHONG KIẾN TRUNG ĐẠI?

 

Các cuộc khởi nghĩa lừng lẫy trong suốt hơn một nghìn năm bị áp bức, bóc lột của bọn phong kiến Trung Hoa do Trưng Trắc – Trưng Nhị (40 – 43), Triệu Thị Trinh (248), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (791) lãnh đạo đã nổ ra và sau đó bị đánh bại, trấn áp là các cuộc khởi nghĩa riêng biệt trong từng giai đoạn khác nhau. Cuộc khởi nghĩa do Lý Bôn (Lý Bí) lãnh đạo (541 – 548) lại có sự kế tục suốt 54 năm (548 – 602) do Triệu Quang Phục, Lý Thiên Bảo – Lý Phật Tử đảm nhận vai trò lịch sử. Lần này cũng vậy, không còn là cuộc khởi nghĩa riêng biệt, mà có sự tiếp nối, từ Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, đến Dương Diên Nghệ và tiếp đến là Ngô Quyền với nền độc lập, tự chủ đã giành giữ được, chấm dứt vĩnh viễn thời kì đen tối, tủi nhục hơn một nghìn năm nô lệ giặc Tàu phong kiến, để cuối cùng, Đinh Bộ Lĩnh sẽ thực hiện được sự thống nhất non sông Tổ quốc, sau 20 năm nội chiến, cát cứ giữa 12 sứ quân. Từ đó, dân tộc ta lại nối tiếp thời kì vẻ vang vua Hùng dựng nước ở một tầm mức phát triển cao hơn, hiển hách hơn.

Tuy vậy, các sử gia vẫn đặt lại vấn đề: Ngô Quyền hay Đinh Bộ Lĩnh là người khai sáng kỉ nguyên độc lập, tự chủ thời phong kiến trung đại? Có người còn khẳng định chính nhân vật lịch sử Khúc Thừa Dụ là người đã thực hiện nhiệm vụ lịch sử ấy!

1
Người anh hùng, nhà quân sự kiệt xuất Ngô Quyền

Sau khi Dương Diên Nghệ hai lần đánh bại quân Nam Hán, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, ông đã đột ngột qua đời bởi một kẻ nội phản đê tiện là Kiều Công Tiễn (Kiểu Công Tiện, người Phong Châu nước ta), vào năm Đinh dậu (937). Càng đê mạt hơn nữa, khi Tiễn lại xin thần phục “nước láng giềng phía Bắc” do Lưu Nham (tức Lưu Cung) nắm quyền, ấy là nước Nam Hán! Bấy giờ, ở trung nguyên Trung Hoa, Thạch Kỉnh Đường (tộc người Sa Đà) đã tiêu diệt nhà Hậu Đường (936 ?), lập nên nhà Hậu Tấn được 2 năm. Năm sau, Mậu tuất (938), người con rể của Dương Diên Nghệ, vốn đang là nha tướng coi giữ đất Ái Châu (Thanh Hoá), đã kéo quân ra Bắc.

Cương mục (1) chép: “Năm Mậu tuất (938). ([Hậu – ct.] Tấn, năm Thiên Phúc thứ 3). Tháng 9, mùa thu. Một nha tướng khác của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền khởi binh, đánh giết Kiểu Công Tiện. Chúa Nam Hán, Lưu Cung sai con là Hoằng Tháo sang cứu viện. Ngô Quyền đón đánh ở sông Bạch Đằng: quân Nam Hán bị thua, Hoằng Tháo chết đuối.

Ngô Quyền, người xã Đường Lâm [đồng hương với Bố Cái đại vương Phùng Hưng – ct.], thuộc dòng dõi quý tộc đã lâu đời, cha là Mân, trước làm quan mục ngay châu nhà. Khi Ngô Quyền mới sinh, có điềm sáng rực cả nhà, trạng mạo đặc biệt khác thường, trên lưng có ba nốt ruồi đen. Người xem tướng lấy làm lạ, bảo rằng sau này có thể làm chúa một phương. Vì thế mới gọi tên là Quyền. Khi Quyền lớn lên, mặt mũi khôi ngô, mắt sáng như chớp, chân bước khoan thai như dáng con hổ, có trí dũng, sức khoẻ cất nổi cái vạc, làm nha tướng của Diên Nghệ. Diên Nghệ gả con gái cho. Ngô Quyền coi giữ Ái Châu. Khi Công Tiện giết Diên Nghệ, Ngô Quyền đem quân từ Ái Châu ra đánh, giết được Công Tiện.

Theo sách Cương mục (Trung Quốc), Công Tiện sai sứ đem của đút lót cho chúa Nam Hán để xin cứu viện. Chúa Nam Hán là Lưu Cung định nhân dịp rối loạn ấy sang lấy Giao Châu, mới cho con là Hoằng Tháo làm Giao vương, đem quân sang cứu Công Tiện. Lưu Cung có hỏi Sùng Văn sứ là Tiêu Ích về sách lược; Tiêu Ích trả lời: ‘Hiện này mưa dầm đã suốt mấy tuần, đường biển hiểm trở xa khơi; Ngô Quyền lại là người giỏi lắm, chớ nên coi thường. Đại quân phải nên giữ gìn thận trọng, dùng nhiều người đưa đường rồi sau hãy tiến’. Lưu Cung không nghe, sai Hoằng Tháo đem thuyền chiến kéo thẳng sang đánh Giao Châu. Khi ấy, Ngô Quyền đã giết được Công Tiện, đem quân đón đánh. Trước hết lấy các cọc gỗ đầu đẽo nhọn và bịt sắt trồng ngầm ở cửa biển, nhân lúc nước triều lên, cho các thuyền nhẹ ra khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy. Hoằng Tháo đuổi đánh, thình lình nước triều rút cạn, thuyền chiến mắc phải cọc bịt sắt, không trở về được; quân Nam Hán bị thua to, Hoằng Tháo bị chết đuối.

Theo Ngũ đại sử […], Lưu Cung đem quân đóng ở trấn Hải Môn. Ngô Quyền ra đón đánh, Hoằng Tháo bị thua và chết, Lưu Cung thu quân kéo về” (2).

Toàn thư (3) còn ghi thêm câu nói đầy tự tin của danh tướng Ngô Quyền lúc Lưu Cung, Hoằng Tháo mới xuất quân: “Hoằng Tháo là đứa trẻ dại khờ, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi…” (4), và ghi cả cảnh tượng chiến đấu, chiến thắng oai hùng của quân ta, cảnh tượng thất trận nhục nhã của bọn cướp nước Nam Hán: “Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, [Ngô – ct.] Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. [Quân Hoằng Tháo] không kịp sửa thuyền, mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. [Ngô – ct.] Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về…” (4).

Cuộc chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng (938) đã chấm dứt giai đoạn Toàn thư gọi là kỉ Nam – Bắc phân tranh (5).

Năm Kỉ hợi (939), vào mùa xuân, Ngô Quyền tự xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập người vợ họ Dương (con gái Dương Diên Nghệ) làm hoàng hậu; đặt các quan chức, dựng nghi lễ trong triều, định màu sắc các lễ phục, triều phục cũng như các loại áo mão khác.

Như vậy, một triều đình của vương quốc độc lập, tự chủ đã được trang trọng thành lập, sau hơn một nghìn năm gánh ách nô lệ của giặc Tàu phong kiến.

Sử gia Lê Văn Hưu đã ca ngợi với niềm tự hào: “Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người Phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một trận nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được” (6).

Sử gia Ngô Sĩ Liên cũng khẳng định: “Tiền Ngô [vương] nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương” (6).

Về sau nữa, Ngô Thì Sĩ ngợi ca: “Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc khôi phục lại quốc thống. Những chiến công của các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu?”; “Vua Ngô Quyền giết được giặc nội phản để trả thù cho chúa [Dương Diên Nghệ – ct.], đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại” (7).

Công đức trị bình chưa thể hiện rõ trong đời sống nhân dân sau đêm trường hơn nghìn năm nô lệ, Ngô Quyền đã vội qua đời, vào năm Giáp thìn (944)! Ông mất đi, triều đình lại bị nội biến. Không ai khác, chính người em ruột của Dương hoàng hậu, là Dương Tam Kha, đã cướp ngôi của cháu. Ngô Xương Ngập, con trai cả của Ngô Quyền phải lánh nạn. “Xương Ngập sợ, chạy đến Nam Sách Giang, ẩn náu tại nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương. Tam Kha nuôi con thứ hai của Ngô vương Quyền là Xương Văn làm con của mình…” (8). Nhưng sự thể ấy cũng không thể tránh khỏi cảnh xâu xé trong nội bộ triều đình. Xương Văn cùng hai tướng là Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc, quyết giành lại ngai báu. Kết cục, sau 6 năm tiếm quyền, Dương Tam Kha bị truất phế. Ngô Xương Văn rước anh là Ngô Xương Ngập về. Ngô Xương Ngập cùng em trông coi việc nước, nhưng chỉ được một thời gian, Ngập lại lấn cả quyền em. Ngô Xương Văn đành ẩn nhẫn. Đến khi Ngập chết bệnh (Giáp dần, 954), Ngô Xương Văn mới thực sự nắm vương quyền.

Tuy nhiên, cha anh hùng, con lại hèn hạ! Chính Nam Tấn vương Ngô Xương Văn “sai sứ sang xin mệnh lệnh chúa Nam Hán là Lưu Thạnh. Nam Hán phong cho Nam Tấn vương chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ kiêm đô hộ” (9)!

Ngô Xương Văn trị vì được 15 năm (951 – 965). Sau đó, trong một trận tiễu phạt nhỏ ở hai thôn hẻo lánh, Xương Văn đã bị tên nỏ mai phục, và đã chết. Triều nhà Ngô (Tiền Ngô, 939 – 944; và Hậu Ngô, 951 – 965) mất theo.

2
Đinh Bộ Lĩnh, người dẹp tan cuộc nội chiến Mười hai sứ quân, thống nhất Đất nước về một mối

Trong điều kiện hạn chế chung của thời cổ – trung đại trên thế giới và điều kiện hạn chế có tính khu vực (địa – chính trị) của thuở bấy giờ, dẫu sao, Đất nước cũng đã được độc lập, tự chủ. Tuy nhiên, chính “ma lực dục vọng” quyền bính đã khiến xui, dẫn đến tình huống xâu xé, tranh đoạt trong nội bộ thân thuộc và trong nước, sau khi đã đánh dẹp, ngăn chặn được nạn ngoại xâm. Đúng hơn, nguy cơ ngoại xâm từ một đế quốc luôn nuôi tham vọng bành trướng vô độ là Trung Hoa (gồm cả tiểu quốc Nam Hán) vẫn còn đó, chưa kể từ các nước láng giềng (Hoàn Vương [Lâm Ấp]; Nam Chiếu [Vân Nam]) và giặc bể (Chà Và, Côn Luân [Nam Dương]), nhưng sự tranh đoạt quyền bính, sự cát cứ địa phương trong nước đã bùng nổ.

Kiều Công Tiễn (Kiểu Công Tiện), rồi lại Dương Tam Kha là hai kẻ đầu sỏ nội loạn đáng trách nhất trong giai đoạn này.

Ngay khi Dương Tam Kha cướp ngôi của người cháu gọi mình bằng cậu ruột, cuộc nội chiến đã khởi đầu. Đó là sự cát cứ xưng hùng xưng  nhưng sử sách gọi là “loạn các sứ”. Trước sau, có tất thảy 12 sứ quân, chiếm cứ mười hai vùng đất, tranh hoành lẫn nhau. Một trong những người nổi binh sớm nhất, có lẽ là Trần Lãm (Trần Minh Công). Trần Minh Công chính là sứ quân mà Đinh Bộ Lĩnh, trong thuở ban đầu tham gia vào cuộc nội chiến, đã đứng vào hàng ngũ thuộc hạ của ông.

Cương mục ghi lời cẩn án: “Xét kĩ ra, thì ngay từ năm thứ nhất đời Nam Tấn [Ngô Xương Văn – ct.], đã thấy có chép ‘Bộ Lĩnh giữ Hoa Lư, Nam Tấn vương và Thiên Sách vương đến đánh không được’. Vậy thì Trần Minh Công khởi binh phải ở vào trước khi Xương Văn chưa lấy lại được nước [từ tay Dương Tam Kha – ct.]. Cứ thế mà suy ra, mười hai sứ quân chiếm giữ các huyện ấy phải có kẻ trước kẻ sau, không giống nhau, chứ không phải đến khi Nam Tấn vương mất rồi, mười hai sứ quân mới đồng thời nổi dậy” (10).

Toàn thư chép: “Bấy giờ trong nước không có chủ, 12 sứ quân tranh nhau làm trưởng, không ai chịu thống thuộc vào ai. Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con nối, bèn cùng với con là Đinh Liễn đến nương tựa” (11).

Thật ra, tình thế Đất nước chỉ như thể là không có chủ!

Toàn thư trước đó đã ghi rõ, ngay từ năm Tân hợi (951), để có thời gian củng cố thế lực, chính Đinh Bộ Lĩnh đã cho con trai cả của mình vào triều Ngô để làm con tin. Con tin ấy là Đinh Liễn: “Bấy giờ, người động Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh cậy núi khe hiểm cố, không chịu giữ chức phận làm tôi. Hai vương [Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn – ct.] muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Liễn đến, hai vương trách tội [Bộ Lĩnh] không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi đánh…” (12).

Đến lúc Ngô Xương Văn trúng tên nỏ phục kích, qua đời (965), các sứ quân lại càng có thời cơ để đẩy mạnh cuộc nội chiến tương tàn thảm khốc. Ngô Xương Xí, con trai của Ngô Xương Văn, không giữ nổi triều đình, cũng không có cựu thần triều Ngô nào ủng hộ, nên rơi xuống mức độ chỉ là một trong 12 sứ!

1.  Trần Lãm (Trần Minh Công)

2.  Kiều Công Hãn (cháu nội Kiều Công Tiễn)

3.  Kiều Thuận (em ruột Kiều Công Hãn)

4.  Nguyễn Khoan

5.  Nguyễn Thủ Tiệp (anh em ruột của Nguyễn Khoan, quan cũ nhà Ngô)

6.  Nguyễn Siêu (như Nguyễn Thủ Tiệp)

7.  Ngô Nhật Khánh (tôn thất nhà Ngô)

8.  Lý Khuê

9.  Lữ Đường

10.  Phạm Bạch Hổ (nguyên bộ tướng của Ngô Quyền)

11.  Ngô Xương Xí (con trai Ngô Xương Ngập)

12.  Đỗ Cảnh Thạc (tướng của triều Ngô).

Bấy giờ ở trung nguyên Trung Hoa, nhà Hậu Chu đã bị Triệu Khuông Dận [:Dẫn] tiêu diệt, lập nên nhà Tống, từ 5 năm trước (960). Nhưng quyền lực nhà Tống cũng chưa vươn xa được đến nước ta. Hơn nữa, phía bắc nước ta còn có nước Nam Hán gần như án ngữ. Do đó, không ai khác, chính người Việt (gồm một vài kẻ là quan lại nhà Đường cũ?) đã xâu xé nhau hết sức đau lòng.

Cương mục ghi chép, khảo đính về thời đoạn này: “Năm Bính dần (966), […]. Từ khi Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, thổ hào các nơi đua nhau nổi dậy. Xương Văn tuy lấy được nước, nhưng chính sự cẩu thả, không thể thống nhất được; đến khi đi đánh Thái Bình, không được, [Xương Văn – ct.] bị chết trận; từ đó trong nước rối loạn. […]” (12).

Năm Đinh mão (967), “thế lực quân đội của Bộ Lĩnh mỗi ngày một mạnh, đánh đâu được đấy, lại phá được đám giặc ở Đỗ Động Giang [do nha tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc lãnh đạo – ct.]. Các bộ đều dẹp yên được cả. Quan lại và nhân dân các châu, các phủ không ai không quy phục”  (13).

Cương mục viết về việc Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua: “Dẹp tan mười hai sứ quân, tự lập lên làm hoàng đế” (14), “đóng đô ở Hoa Lư”, “bầy tôi dâng tôn hiệu. Tôn hiệu nhà vua là Đại Thắng Minh hoàng đế” (15). Đinh Bộ Lĩnh lại lấy niên hiệu với tư cách một vị vua của một vương triều bề thế. Từ năm Canh ngọ (970), bắt đầu gọi là năm Thái Bình thứ 1 (16).

Triều đại mới của nước ta cũng thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Tống. Đinh Liễn (Nam Việt vương) là người chuyên trách lĩnh vực này.

Triều đình do Đinh Bộ Lĩnh thành lập khá có quy mô.

Ngoài việc đặt phẩm cấp cho quan văn võ, Đinh Bộ Lĩnh lại chứng tỏ là một vị vua “tôn sùng đạo Phật, mới đặt phẩm cấp cho tăng nhân và đạo sĩ: ban hiệu Thái sư cho Chân Lưu, lại cho Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng chân uy nghi” (17). Cùng chức hàm thái sư (tể tướng triều đình), tăng sĩ Ngô Chân Lưu còn có danh hiệu được sắc tặng là Khuông Việt (17).

Duy có một điều đáng phấn khởi nhất, đó là việc Đinh Bộ Lĩnh đã đặt quốc hiệu mới cho nước ta, một cách khá thuần Việt, nếu không nói là đã rất thuần Việt: Đại Cồ Việt.

Đinh Bộ Lĩnh lập nên triều đại mới từ chiến tích dẹp tan nội chiến, cát cứ, chứ không phải bằng chiến công đánh ngoại xâm.

Cước chú của bài Ngô Quyền hay Đinh Bộ Lĩnh…:

(1) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (gọi tắt là Cương mục), tiền biên và chính biên, bản dịch (2 tập), tập 1, Nxb. Giáo Dục, 1998.

(2) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 221 – 222 (Tb. [tiền biên], [quyển] V, [tờ] 18 – 19). TXA. chua thêm (ct.).

(3) Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003.

(4) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 292 – 293 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] V, [tờ] 19b – 20a). TXA. ct..

(5) Kỉ phân tranh giữa hai miền Quảng Châu [Bắc] – Giao Châu [Nam]; Quảng Châu vốn là đất cũ của nước ta, Lưu Cung chiếm đóng, lập ra nước Nam Hán.

(6) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 294 (NK., q. V, tờ 21a). TXA. in đậm (iđ.) & ct..

(7) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 222 – 223 (Tb., V, 19 – 20). TXA. iđ. & ct.. Xem thêm: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch: Nguyễn Trọng Điềm, hiệu đính: Đào Duy Anh, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 252: Vế đối của vua nhà Minh – Hy Tông, và vế đáp của sứ thần nhà Lê nước ta – Giang Văn Minh (người tỉnh Sơn Tây) về trụ đồng Mã Viện và các trận chiến thắng quân Nam Hán, quân Nguyên – Mông của quân dân ta dưới sự chỉ huy của Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trên sông Bạch Đằng:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục

Đằng giang tự cổ huyết do hồng

(Trụ Mã đến nay rêu đã lục

Sông Đằng từ cổ máu còn hồng).

Vua Minh – Hy Tông tức giận đến mức vi phạm luật lệ ngoại giao, ra lệnh bắt Giang Văn Minh và mổ bụng ông. Giang Văn Minh là một sứ thần dũng cảm, không chịu để nhục quốc thể.

(8) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 224 (Tb., V, 21).

(9) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 228 (Tb., V, 25). TXA. iđ. & ct..

(10) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 231 (Tb., V, 28 – 29). TXA. iđ. & ct..

(11) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 301 – 302 (NK., q. V, tờ 25b).

(12) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 298 (NK., q. V, tờ 23b – 24a). TXA. iđ. & ct..

(12) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 230 (Tb., V, 27). TXA. iđ. & ct..

(13) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 233 (Tb., V, 31 – 32). TXA. ct.. Cương mục ghi chép thêm thư tịch cổ của Trung Hoa Ngũ đại sử và Thập quốc Xuân thu. “Theo sách Thập quốc Xuân thu  của Ngô Nhận Thần nhà Thanh, […]. Trước kia, Ngô Xương Văn mất, tướng tá của Xương Văn là Lã Xử Bình cùng với thứ sử Phong Châu [nước ta] là Kiều Tri Hựu gây loạn, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn đánh bại Xử Bình, được dân chúng suy tôn lên làm vua” (sđd., tr. đã dẫn).

(14) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 237 (Cb. [chính biên], I, 2).

(15) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 237 (Cb. [chính biên], I, 2 – 3).

(16) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 238 (Cb. [chính biên], I, 3).

(17) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 239 (Cb. [chính biên], I, 4 – 5).

TRẦN XUÂN AN
1, 2, 3, 4, 5.

Share.